VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

 

WHĐ (10.11.2020) – Giải Templeton được Sir John Templeton thành lập năm 1972 nhằm tôn vinh những cá nhân có công trong việc phát triển đời sống tâm linh của nhân loại. Giải Templeton được sánh với giải Nobel hằng năm về nhiều lãnh vực nhưng không quan tâm đến lãnh vực tâm linh. Từ khi thành lập đến nay, giải Templeton đã được trao cho nhiều nhà khoa học, triết gia, thần học gia, giáo sĩ, nhà văn…

Những người nhận giải Templeton thường có bài phát biểu quan trọng, thể hiện tầm nhìn sâu sắc của họ về vai trò của sự sống tâm linh trong thế giới. Chúng tôi trân trọng giới thiệu hai bài phát biểu của Đức Ông Tomas Halik, linh mục Công giáo, và của Lord Jonathan Sacks, Rabbi Do Thái.

DIỄN VĂN CỦA ĐỨC ÔNG TOMAS HALIK

Đức Ông Tomas Halik là một linh mục Công giáo, triết gia và thần học gia người Tiệp Khắc. Cha là giáo sư môn Xã hội học tại Đại học Thánh Carôlô ở Praha, và từ năm 1989 đến nay, cha được mời thuyết trình tại nhiều đại học và các hội nghị quốc tế trên thế giới. Cha được trao giải thưởng Templeton năm 2014.

Hôm nay tôi được gia nhập gia đình những người lãnh giải Templeton trong niềm vui, sự kính trọng, lòng biết ơn, nhất là với ý thức về trách nhiệm và sự cam kết tinh thần.

Lúc ban đầu, cách đây hơn 40 năm, giải Templeton được mô tả là giải thưởng cho “sự tiến bộ trong tôn giáo”. Vào thời điểm đó, nhiều người lấy làm khó chịu về sự nối kết giữa “tiến bộ” và “tôn giáo”. Nhiều tín hữu tin rằng trong tôn giáo, không cần có sự tiến bộ vì tôn giáo chỉ là người canh giữ và bảo vệ trật tự vững chắc trong xã hội. Nhiều người-không-tin lại cho rằng tôn giáo không thể có bất kỳ tiến bộ nào, và chủ nghĩa thế tục là tiếng nói cuối cùng của sự tiến hóa về mặt văn hóa. Một thế hệ sau, Jurgen Habermas tuyên bố rằng ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới hậu-thế-tục (post-secular).

Đó là một thế giới kỳ lạ. Nó hàm chứa nhiều ngạc nhiên bất ngờ đối với người có niềm tin tôn giáo cũng như người không tin. Nói tổng quát là hiện tượng tôn giáo không chết đi nhưng đang được biến đổi. Không những các “tôn giáo mới” và những phong trào tôn giáo được hình thành, nhưng những tôn giáo cũ cũng đang biến đổi và đảm nhận những vai trò mới, về văn hóa và chính trị. Nơi đâu các tôn giáo truyền thống bị bóp nghẹt thì chính hiện tượng thế tục lại trở thành tôn giáo. Không lạ gì khi nhiều vị đại diện của các tôn giáo cũ và “chủ thuyết vô thần mới” bắt đầu thấy lo sợ.

Lần đầu tiên đến thăm nước Anh cách nay gần nửa thế kỷ, tôi đến từ một đất nước ở đó thứ tôn giáo do Nhà nước áp đặt quyết liệt được gọi là “chủ thuyết vô thần khoa học”. Không những tự do tôn giáo hoàn toàn bị đàn áp nhân danh hệ ý thức vô thần khoa học, mà cả tự do sáng tạo nghệ thuật và nghiên cứu khoa học cũng bị đàn áp như thế. Tôi đã thật hạnh phúc khi được phép đi thăm nước Anh, một đất nước với truyền thống Kitô giáo khoan dung lâu đời, một Kitô giáo khôn ngoan và vui tươi của Chesterton và C.S.Lewis.

Nửa thế kỷ đã qua đi. Những chiếc xe buýt chạy quanh Luân Đôn với thông điệp “Thiên Chúa có lẽ không hiện hữu” được dán bên thành xe, và mệnh đề “Anh quốc là nước Kitô giáo” đang gây tranh cãi và phản kháng dữ dội. Không, tôi không kinh hãi. Tôi luôn cố gắng tìm hiểu người khác hơn là kêu gọi chiến tranh văn hóa. Theo một nghĩa nào đó, tôi còn cực đoan hơn ngài Dawkins. Tôi xác tín rằng Thiên Chúa trong chủ trương vô thần của Dawkins – một Thiên Chúa được hiểu như một giả thuyết khoa học ngây ngô – Thiên Chúa ấy không chỉ có lẽ không hiện hữu mà dứt khoát là không hiện hữu. Chắc chắn đó không phải là vị Thiên Chúa mà tôi tin. Đó không phải là vị Thiên Chúa mà nhân danh Ngài, chúng tôi chiến đấu chống lại thứ chủ thuyết vô thần gắn liền với quyền lực chính trị.

Không, không phải tôn giáo đúng nghĩa, hoặc khoa học, kể cả cách giải thích vô thần về khoa học đã gây ra những khó khăn, nhưng thay vào đó là những con người với trí tuệ khép kín, họ cần phải đàn áp và hạ nhục những niềm tin khác để truyền bá niềm tin của họ. Lịch sử Đông Âu cho thấy tôn giáo hay chủ thuyết vô thần đều có thể bị sa vào cơn cám dỗ quyền lực. Tôi chỉ đơn giản mong ước rằng khi thứ “chủ thuyết vô thần” mới già tuổi hơn và trưởng thành hơn, ít ra nó cũng sẽ khoan dung như Kitô giáo tại châu Âu ngày nay.

Thế nhưng Kitô giáo Tây phương ngày nay đang ở đâu, nó mang hình thái nào, và tầm nhìn của nó về tương lai ra sao? Tôi không ngạc nhiên khi những mệnh đề như “Anh quốc là nước Kitô giáo” hay “Châu Âu là lục địa Kitô giáo” có thể gây bão. Một đàng, có nhiều chứng cứ lịch sử và xã hội biện minh cho lập trường này. Nói cho cùng, chính đặc tính thế tục của xã hội cũng là hoa quả của Kitô giáo, và theo một nghĩa nào đó, cả chủ thuyết vô thần tại Âu châu cũng là hiện tượng Kitô giáo. Đàng khác, những mệnh đề như “Anh quốc là nước Kitô giáo” hay “Châu Âu là lục địa Kitô giáo” lại khiến chúng ta đặt câu hỏi: Nói như thế nghĩa là gì? Nói như thế sẽ đưa đến những kết luận nào? Mô hình Kitô giáo nào có thể giúp cho thế giới của chúng ta trở thành nơi tốt đẹp hơn cho sự sống mọi người – cả Kitô giáo và ngoài Kitô giáo, cả các tín hữu cũng như người vô thần?

Chúng ta đã chứng kiến sức mạnh của những biểu tượng tôn giáo có thể trở thành sức mạnh hủy diệt và nguồn bạo lực như thế nào khi nó gắn với những lợi ích chính trị. Bây giờ cần phải hỏi: Làm thế nào để sức mạnh đức tin có thể được vận dụng để kiến tạo một nền văn hóa của sự tôn trọng lẫn nhau, một nền văn minh trong đó sự khác biệt không bị coi là mối đe dọa nhưng là giúp nhau thêm phong phú. Tiến bộ nào có thể xảy ra trong tôn giáo để chúng ta được hưởng một nền văn hóa chia sẻ thay cho nỗi sợ hãi vì sự va chạm giữa các nền văn minh? Các tôn giáo (nhất là Kitô giáo) có thể làm gì để biến đổi tiến trình toàn cu hóa thành một nền văn hóa của thông hiệp?

Vào thời điểm tôi đến thăm nước Anh lần đầu, mùa hè năm 1968, xe tăng của Nga tiến vào đất nước tôi, đè bẹp niềm hi vọng của (phong trào) Mùa Xuân Praha, hi vọng được hưởng chút tự do và dân chủ. Tôi chỉ có thể đến Anh quốc lần thứ hai sau sự sụp đổ của đế quốc Xô-viết, vốn được cai trị bằng sự phối hợp giữa chủ nghĩa đế quốc Nga lỗi thời và hệ ý thức “vô thần khoa học”.

Ngày nay không chỉ những nước ở Trung Âu và Đông Âu mới quan tâm theo dõi những nỗ lực của nhà cầm quyền tại điện Kremlin để khôi phục vương quốc xưa. Hệ ý thức “vô thần khoa học” đã chết từ lâu tại Nga, nhưng chủ nghĩa quốc gia Nga lỗi thời và những giấc mơ đế quốc vẫn còn rất mạnh. Trong Đệ nhị thế chiến, Stalin, một trong những người bách hại tôn giáo tàn ác nhất của lịch sử nhân loại, nhận ra rằng người dân Nga không sẵn sàng chết cho thứ hệ ý thức Cộng sản “vô thần khoa học”, thế là ông ta cố gắng sử dụng Chính thống giáo và chủ nghĩa quốc gia Nga để cứu đế quốc. Ngày nay chúng ta nhìn thấy cảnh những ông KGB ngày xưa hôn kính ảnh Chúa Kitô và ảnh Đức Mẹ. Liệu các vị lãnh đạo Giáo Hội Chính thống Nga có được sự can đảm của các tiên tri trong Kinh Thánh để nói với những nhà lãnh đạo Nga ngày nay rằng: Trước hết các ông phải vứt bỏ khỏi tâm trí các ông những con quỷ trong tác phẩm Những người bị quỷ ám của Dostoievski, rồi mới đem lễ vật hi sinh đến Nhà Chúa?

Trong ánh sáng của những phát triển nguy hiểm tại Đông Âu, chúng ta phải ý thức trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn và thúc đẩy dự phóng vĩ đại về một châu Âu hiệp nhất. Sự toàn vẹn chính trị mạnh mẽ của châu Âu là sự bảo vệ duy nhất đối với các dân tộc Âu châu, không những chống lại những nguy hiểm bên ngoài nhưng hơn thế nữa, chống lại sự bùng nổ của chủ nghĩa man di bên trong, chống lại chủ nghĩa quốc gia cực đoan, chủ trương bành trướng nước lớn và chủ trương bài ngoại đã từng ngóc cái đầu xấu xa của nó trong các quốc gia Âu châu.

Nếu cơn cám dỗ nguy hiểm của chủ trương ích kỷ quốc gia và chủ nghĩa cô lập thắng thế tại châu Âu, dẫn tới sự sụp đổ của EU (Europian Union), thì các quốc gia châu Âu sẽ không có được chủ quyền lớn hơn nhưng thay vào đó, sẽ phải đối mặt nhiều hơn với những sức mạnh của hỗn mang và hủy diệt từ bên trong.

Nếu ngôi nhà chung Âu châu thực sự là nhà, nó không thể chỉ được đặt nền trên việc quản trị và giao thương. Văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo môi sinh tâm linh và tinh thần của xã hội. Hệ thống Cộng sản trong đó văn hóa bị kiểm soát bởi hệ ý thức đã không thể tồn tại trong thị trường toàn cầu của các ý tưởng. Thế nhưng điều gì sẽ xảy đến cho một xã hội mà ở đó văn hóa đánh mất chiều kích tâm linh và thay vào đó, bị thống trị bởi nền công nghệ giải trí và thương mại?

Trong sự trỗi dậy của châu Âu, các Giáo hội đã đóng vai trò chủ chốt trong việc kiến tạo nền văn hóa phối hợp sứ điệp Kinh Thánh với sự minh triết của Hi Lạp và hệ thống pháp lý của Rôma. Nhưng hình thức đó của Kitô giáo – Christianitas, Kitô giới – nay đã thuộc về quá khứ. Kitô giáo không còn là ngôn ngữ chung của các quốc gia Âu châu. Châu Âu của tương lai sẽ là bản nhạc đa âm còn phong phú hơn. Kitô giáo ngày nay chỉ còn là một trong nhiều tiếng nói. Đừng hỏi rằng tiếng nói nào sẽ lớn hơn trong châu Âu ngày mai, nhưng thay vào đó hãy hỏi xem tiếng nói nào đóng góp nhiều hơn cho nền văn hóa sống chung dựa trên sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau.

Sứ điệp trung tâm của Kitô giáo là: Thiên Chúa là tình yêu và Thiên Chúa Ba Ngôi chính là cộng đồng chia sẻ. Niềm tin vào một Thiên Chúa là tình yêu và cộng đồng chia sẻ không phải là một giả thuyết khoa học nhưng là một cam kết tinh thần với những hàm ngậm hiển nhiên về chính trị và văn hóa. Đó là sự cam kết chấp nhận tính đa nguyên của thế giới chúng ta và không ngừng nỗ lực để biến đổi tính đa nguyên đó thành nền văn hóa của thông hiệp, chia sẻ và làm phong phú lẫn nhau. Kitô giáo không cần là ngọn cờ bay cao hơn tại châu Âu, nhưng châu Âu và thế giới cần đến những con người đem lại cho hai từ tình yêu ý nghĩa sâu xa vốn có trong sứ điệp căn để của Phúc Âm.

Văn hóa Kitô giáo Tây phương của chúng ta và giai đoạn Khai sáng quan trọng trong lịch sử đã dẫn đến ý tưởng vĩ đại về sự khoan dung.

Khoan dung là cách dịch thế tục của giáo huấn Phúc Âm về tình yêu thương đối với kẻ thù. Thế nhưng khi những ý niệm tôn giáo được dịch sang ngôn ngữ và ý niệm thế tục thì thông thường nó bị đánh mất một điều gì đó. Để khoan dung với một người láng giềng khó chịu, tôi không cần phải yêu thương người đó. Tôi chỉ cần không biết đến người đó, bởi vì tôi không quan tâm đến họ. Mỗi chúng ta đều có cuộc đời của mình, lối sống của mình, chân lý của mình.

Một mô hình nào đó về “chủ trương đa văn hóa” dựa trên nguyên tắc khoan dung sẽ không dẫn đến một cộng đồng dân cư hay láng giềng, nhưng chỉ dẫn đến một hỗn hợp các ghettos khép kín. “Hãy để mọi người sống như họ thích bao lâu nó không làm phiền hoặc giới hạn người khác”. Chắc chắn đây là tình trạng nhân bản hơn tình trạng cãi vã thường xuyên hay thậm chí gây chiến liên tục, thế nhưng liệu đó có thể là giải pháp lâu dài không? Thứ khoan dung đó chỉ tốt cho những người sống bên cạnh nhau chứ không phải cho những người sống với nhau.

Vấn đề là thế giới chúng ta, “ngôi làng toàn cầu” đã trở nên quá chật chội để chỉ sống bên cạnh nhau, không gây phiền toái. Dân số gia tăng và dù chúng ta thích hay không thích thì càng ngày càng có nhiều người “khác” chúng ta. Hàng rào ngôi nhà chúng ta không còn quá xa như xưa. Chúng ta có thể nhìn vào bếp ăn và ngửi thấy mùi thơm nồi súp từ bàn ăn của nhà khác. Chúng ta không thể không biết đến những gia đình trước đây chẳng có liên hệ gì. Mô hình khoan dung được kiến tạo cho một thế giới khác, một kiến trúc đô thị khác. Nhưng những đô thị này không còn như xưa. Chúng ta sống với nhau, dù thích hay không, vì thế phải tìm những luật lệ khác cho sự sống chung này chứ không chỉ đơn giản là coi người khác như không ở trong vòng thân hữu của mình.

Nhưng vòng thân hữu của chúng ta đã bị vi phạm rồi. Sự gần gũi như thế (về không gian) thường dẫn đến những xung đột. Người ta không thể quay đi khi đối diện với bạo lực. Cần phải che chở và bảo vệ người vô tội. Do đó phảiđưa má mình ra, chứ không phải má của kẻ khác, nếu có hi vọng ngăn cản cái ác; những người mà chúng ta phải bảo vệ, chúng ta có trách nhiệm với họ.

Thế nhưng chúng ta có thể và phải làm tất cả để sự việc không đi tới mức độ đó. Tại nhiều nơi bị đe dọa, vẫn có thời giờ cho việc ngăn ngừa và chế ngự bạo lực, thời giờ cho đối thoại.

Đối thoại liên tôn thường diễn ra dưới hình thức các hội nghị – cơ hội cho những đại diện có học thức thuộc các tôn giáo gặp gỡ nhau. Dĩ nhiên những cuộc gặp gỡ như thế có thể được dùng như một dấu hiệu quan trọng, nhưng nó lại có một điểm yếu: dần dần hình thành một văn hóa ngầm giữa các “chuyên viên đối thoại”, họ hiểu nhau tốt hơn là những người cực đoan trong cộng đồng của họ. Hầu hết mọi người đều thích liên hệ với những người chịu lắng nghe và đón nhận mình. Nhưng liệu những người tham gia các cuộc gặp gỡ đó có đủ tầm nhìn và can đảm để tác động lên những người trong cộng đoàn của họ không, những người nhìn các tín hữu và các tôn giáo khác với đủ thứ thành kiến, sợ hãi và căm ghét? Và phải chăng một trong những bổn phận nền tảng của các nhà lãnh đạo tôn giáo lại không phải là có sự can đảm mang tính ngôn sứ để chống lại việc sử dụng tôn giáo nhằm phục vụ quyền lực, và chống lại tất cả những ai gây bất công và bạo lực đối với người vô tội?

Cách nay hai ngàn năm, người ta hỏi vị rabbi Do Thái: Ai là người thân cận của tôi? Câu hỏi đó vẫn còn rất khẩn thiết cho ngày nay. Chúa Giêsu đã đảo ngược câu hỏi cách đáng ngạc nhiên. Đừng hỏi ai là người thân cận của tôi nhưng hãy trở nên người thân cận của người khác! Hãy gần gũi với người khác, nhất là những ai cần được giúp đỡ và yêu thương. Hãy trao tặng tự do cho những người đang mòn mỏi trong thứ ngục tù của căm ghét và tội lỗi bằng cách bày tỏ sự tha thứ và sẵn sàng hòa giải.

Lời Chúa Giêsu kêu gọi sống tình yêu vô điều kiện, yêu thương cả kẻ thù, lời kêu gọi ấy xem ra vô lý đối với những ai nhìn tình yêu như một tình cảm, một cảm xúc. Thế nhưng tình yêu là điều gì đó vĩ đại hơn thế. Đó là một không gian an bình trong tâm hồn và đời sống mà chúng ta trao tặng cho người khác để họ là chính họ. Chỉ trong không gian yêu thương và đón nhận đó, chúng ta mới có thể khám phá sự thật về chính mình, phát triển phần tốt đẹp nhất nơi mình. Nhưng tình yêu luôn là bước đi quyết liệt và liều lĩnh. Bất cứ ai yêu thương đều phải liều chấp nhận bị tổn thương.

Chỉ ở đó tôi mới có thể trả lời câu hỏi về tương lai của đức tin. Tôi tin vào một đức tin mang thương tích. Điều then chốt trong đức tin Kitô của tôi là một cảnh đặc biệt trong Phúc Âm theo thánh Gioan – cuộc gặp gỡ giữa Tông đồ Tôma và Đức Kitô Phục sinh. Trong lòng Tôma cũng như trong tâm trí nhiều người ngày nay, đức tin và nghi ngờ đang xung đột lẫn nhau. Chỉ khi Chúa Giêsu cho Tôma thấy vết thương của Người thì ông mới kêu lên: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!

Thế giới chúng ta đầy thương tích. Tôi xác tín rằng những ai khép mắt lại trước những vết thương của thế giới thì người ấy không có quyền nói rằng: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con. Một tôn giáo mà không biết gì đến nỗi đau và bất hạnh của con người thì tôn giáo ấy chỉ là thuốc phiện của nhân dân. Một Thiên Chúa không mang thương tích là vị Thiên Chúa đã chết. Khi ai đó nói với tôi về Thiên Chúa của họ, tôi hỏi lại: Có phải là Thiên Chúa Tình yêu, chịu thương tổn vì những khổ đau của nhân loại không? Tôi không muốn tin vào vị Thiên Chúa nào khác.

Gần đây tôi đọc Nhật ký thiêng liêng của Mẹ Têrêxa Calcutta, người đầu tiên lãnh giải Templeton. Trước đây tôi đã biết bà sống thế nào, cụ thể là phục vụ người nghèo, người đau yếu, hấp hối. Bây giờ tôi lại biết những đêm tối của bà, những đêm tối của linh hồn, những nghi nan của đức tin, trải nghiệm về sự im lặng của Thiên Chúa. Bà mang lấy thập giá của tình liên đới gấp đôi. Ban ngày bà là một nữ tu phục vụ những người cần được chữa lành vết thương và xoa dịu cơn đói thể xác. Ban đêm bà lại chia sẻ đêm tối của những ai cảm thấy mình xa cách ánh sáng của Thiên Chúa và chịu đựng sự trống rỗng của linh hồn.

Vâng, “sự phát triển của tôn giáo” là ở đó. Đó là sự liên kết chiều sâu thiêng liêng và tình liên đới rộng mở với tất cả những ai đang đau khổ.

Alexander Solzhenitsyn, một người lãnh giải Templeton khác, từng trả lời câu hỏi về điều gì sẽ tiếp theo chủ nghĩa Cộng sản, ông nói (đó là) một thời kỳ chữa lành lâu dài, rất lâu dài. Trước câu hỏi về điều gì sẽ đến sau giai đoạn nhiều tín hữu và cả người không tin đều cho rằng nói về Chúa là điều dễ dàng, tôi kì vọng đó sẽ là hành trình lâu dài, rất lâu dài để đi vào chiều sâu. Và tôi đặt hi vọng ở đó.

DIỄN VĂN CỦA RABBI LORD JONATHAN SACKS

Lord Jonathan Sacks (sinh năm 1948) là một rabbi Do Thái, giáo sư môn Tư tưởng Do Thái tại đại học New York, đại học Yeshiva, King’s College London. Ông được trao giải Templeton năm 2016 vì những đóng góp cho những nghiên cứu và suy tư về vai trò của tôn giáo và những giá trị tâm linh.

Tôi tự nhủ giải thưởng này không phải là sự nhìn nhận về quá khứ cho bằng trách nhiệm đối với tương lai, và bài diễn văn này hướng tới tương lai đó. Đây là thời điểm quyết định trong lịch sử. Nhìn vào bất cứ đâu, về chính trị, tôn giáo, kinh tế, môi trường, đều có sự bất an và bất ổn. Không quá đáng khi nói rằng tương lai của phương Tây và hình thái độc đáo về tự do mà phương Tây khai phá suốt bốn thế kỷ qua nay đang rơi vào nguy hiểm.

Hôm nay tôi muốn nhìn vào một hiện tượng định hình phương Tây, lúc đầu đã dẫn đến sự vĩ đại nhưng nay lại đưa đến khủng hoảng. Có thể tóm tắt trong một từ: gia công, thuê ngoài (outsourcing). Nhìn ở bề mặt, không gì có thể tốt đẹp và hiệu quả hơn (về sản xuất). Đó là nền tảng của kinh tế hiện đại. Chính lý thuyết của Adam Smith về phân chia lao động và của David Ricardo về lợi thế so sánh (comparative advantage) nói lên điều đó, kể cả khi bạn giỏi hơn tôi về mọi sự, cả hai chúng ta đều có lợi nếu bạn làm điều bạn giỏi nhất và tôi làm điều tôi giỏi nhất và chúng ta giao thương với nhau. Câu hỏi là: Có giới hạn nào không? Có những gì mà chúng ta không thể và không nên thuê ngoài?

Vấn đề nổi lên do những kỹ thuật mới và truyền thông toàn cầu rất nhanh chóng. Thế nên thay vì gia công trong một nền kinh tế thì chúng ta gia công giữa các nền kinh tế. Chúng ta đã thấy việc gia công sản xuất tại các nước có giá nhân công rẻ. Chúng ta đã thấy việc gia công các dịch vụ. Đây được coi như ý tưởng tốt, như thể phương Tây nói với thế giới: các anh sản xuất, còn chúng tôi tiêu thụ. Nhưng liệu chuyện đó có bền vững lâu dài không?

Rồi các ngân hàng bắt đầu gia công các rủi ro, cho vay vượt khả năng vì tin tưởng rằng giá cả sẽ tăng không ngừng hoặc tệ hơn nữa, dù nó có sụt giảm trầm trọng thì đó là vấn đề của ai khác chứ không phải của tôi.

Còn một hình thức thuê ngoài nữa mà ít ai để ý: thuê trí nhớ. Các máy tính và điện thoại thông minh của chúng ta đã phát triển những bộ nhớ ngày càng lớn hơn, từ kilobyte đến megabyte rồi gigabyte, đang khi trí nhớ của chúng ta và con cái chúng ta ngày càng nhỏ hơn. Thật thế, ngày nay tại sao lại phải bận tâm ghi nhớ bất cứ điều gì trong khi chúng ta có thể tìm thấy trong nháy mắt trên Google hay Wikipedia?

Thế nhưng ở đây tôi nghĩ chúng ta đã phạm một sai lầm. Chúng ta lẫn lộn lịch sử với ký ức, vốn không giống nhau. Lịch sử là để trả lời cho câu hỏi “Điều gì đã xảy ra?”, còn ký ức trả lời cho câu hỏi “Tôi là ai?”. Lịch sử là về những sự kiện, ký ức là về căn tính. Lịch sử là câu chuyện của nó (his-story). Chuyện đó xảy đến cho ai khác chứ không phải tôi. Ký ức là chuyện của tôi, là quá khứ làm nên con người tôi, di sản mà tôi là người canh giữ cho thế hệ sẽ tới. Không có ký ức thì không có căn tính. Và không có căn tính, chúng ta chỉ còn là bụi đất trên bề mặt của vô biên.

Vì thiếu ký ức, chúng ta đã quên mất một trong những bài học quan trọng nhất phát sinh từ những cuộc chiến tranh tôn giáo trong thế kỷ 17 và 18 và sự phát sinh tự do mới tiếp theo sau. Cho dù nghe có vẻ cổ xưa nhưng đúng là: Xã hội tự do là sự thành tựu tinh thần. Không có sự tự chế, không có khả năng trì hoãn sự thỏa mãn bản năng, và không có những tập quán tinh thần mà chúng ta gọi là nhân đức, thì cuối cùng chúng ta đánh mất tự do.

Đó là điều Locke muốn nói khi ông đối nghịch tự do (liberty) với sự buông thả (licence): liberty là tự do làm điều mình phải làm, còn licence là tự do làm điều mình muốn. Đó là điều mà Adam Smith lưu ý khi ông viết cuốn The Theory of Moral Sentiments trước khi viết cuốn The Wealth of Nations. Đó là điều Washington muốn nhắc khi nói, “Quyền con người chỉ có thể được bảo đảm trong một dân đạo đức”. Và Benjamin Franklin khi nói, “Chỉ có một dân tộc đạo đức mới có thể hưởng tự do”. Còn Jefferson viết, “Một dân tộc xét như một xã hội đào tạo con người đạo đức, và mọi thành viên trong đó phải có trách nhiệm với xã hội của mình”.

Ở một thời điểm nào đó, phương Tây đã bỏ rơi niềm tin này. Khi tôi đến Cambridge vào thập niên 1960, lúc đó giáo trình triết học được gọi là Khoa học luân lý, nghĩa là cũng giống như Khoa học tự nhiên, luân lý là điều khách quan, hiện thực, thành phần của thế giới bên ngoài. Tuy nhiên tôi sớm nhận ra rằng hầu như chẳng ai tin vào điều đó nữa. Luân lý chẳng là gì khác hơn sự diễn tả cảm xúc, hoặc một tình cảm chủ quan, hoặc trực giác riêng tư, hoặc chọn lựa tự lập. Trong những giới hạn, đó là bất cứ điều gì tôi chọn. Thật vậy, chẳng còn gì để nghiên cứu ngoài ý nghĩa của từ ngữ. Đối với tôi, điều này không phải là văn minh cho bằng sự sụp đổ của văn minh.

Tôi đã dành nhiều năm để nghiên cứu xem điều gì đã xảy ra. Luân lý đã bị tách thành hai phần và được trao cho những cơ chế khác. Có những chọn lựa luân lý và có những hậu quả của chọn lựa luân lý. Chính luân lý lại được trao cho thị trường. Thị trường cho chúng ta những chọn lựa, và chính luân lý chỉ là một tập hợp những chọn lựa, ở đó đúng hay sai chẳng có ý nghĩa gì cao hơn việc ước muốn được thỏa mãn hay không thỏa mãn. Kết quả là chúng ta thấy ngày càng khó hiểu tại sao có những điều chúng ta muốn làm, có thể làm và có quyền hợp pháp để làm nhưng lại không nên làm vì nó không công bằng hoặc không xứng đáng hoặc không trung thành hoặc không có ý nghĩa: tắt một lời, thiếu đạo đức. Đạo đức học bị giảm thiểu thành kinh tế học.

Xét về những hậu quả của các chọn lựa, người ta trao cho Nhà nước. Những chọn lựa xấu dẫn đến hậu quả xấu: các tương quan bị đổ vỡ, trẻ em không được chăm sóc, những căn bệnh trầm cảm, những cuộc đời phí phạm. Thế nhưng chính quyền sẽ lo chuyện đó. Hãy quên đi chuyện hôn nhân là mối dây thiêng thánh giữa vợ và chồng. Hãy quên đi chuyện trẻ thơ cần môi trường sống yêu thương và an toàn. Hãy quên đi chuyện các cộng đoàn sẽ nâng đỡ chúng ta khi cần thiết. Phúc lợi người dân được trao cho Nhà nước. Đối với lương tâm vốn từng đóng vai trò lớn trong đời sống luân lý, lương tâm đó cũng có thể được trao cho những cơ quan điều hành. Như thế, khi giảm thiểu chọn lựa luân lý cho khoa kinh tế, chúng ta cũng chuyển những hậu quả của chọn lựa cho chính trị.

Xem ra điều đó vận hành tốt, ít ra là trong một hay hai thế hệ. Nhưng hiện nay các vấn đề đã xuất hiện và không thể chỉ giải quyết bằng thị trường hay Nhà nước. Chỉ xin ghi nhận một ít việc: Tình trạng thất nghiệp tiếp theo sau việc gia công sản xuất và dịch vụ; thất nghiệp sẽ gia tăng hơn nữa khi trí tuệ nhân tạo thay thế phán đoán và kĩ năng của con người. Lợi tức thấp thúc đẩy vay mượn và nợ nần và làm cho người ta không muốn tiết kiệm hay đầu tư. Việc hạ thấp mức sống, trước hết trong giới lao động, rồi đến giới trung lưu. Sự bất ổn trong công việc, kể cả với những người có bằng tốt nghiệp. Các gia đình trẻ không đủ khả năng mua nhà. Sự đổ vỡ của hôn nhân đưa đến những vấn đề nghèo khổ và trầm cảm nơi trẻ em. Sự sụt giảm mức sinh nở khắp châu Âu dẫn đến sự gia tăng di dân chưa từng có, ngày nay đó là cách duy nhất để phương Tây giữ vững dân số, và sự thất bại có tính hệ thống trong việc giúp di dân hội nhập. Việc đánh mất gia đình, cộng đoàn, căn tính, vốn là những gì đem lại cho chúng ta sức mạnh để vượt qua những thời điểm khó khăn. Và những việc khác nữa.

Tại sao các vấn đề trên lại không thể giải quyết? Trước hết, vì đó là những vấn đề toàn cầu, còn các chính phủ chỉ ở tầm mức quốc gia. Thứ hai, đó là những vấn đề lâu dài đang khi thị trường và chính trị dân chủ tự do chỉ là ngắn hạn. Thứ ba, vì những vấn đề trên tùy thuộc sự thay đổi thói quen ứng xử mà thị trường và chính trị lại không có chức năng này. Trên hết mọi sự là vì những vấn đề trên không thể được giải quyết bằng thị trường và chính trị. Bạn không thể “gia công, thuê” lương tâm. Bạn không thể rũ bỏ trách nhiệm luân lý.

Khi bạn làm việc, bạn nêu cao những kì vọng mà lại không thể đáp ứng. Khi những kì vọng không được đáp ứng, xã hội sẽ chứa đầy những bực bội, giận dữ, sợ hãi, chán nản, nguyền rủa. Dân chúng bắt đầu đi tìm nương náu nơi những suy nghĩ ma thuật và ngày nay có thể là một trong bốn hình thái: cực hữu, cực tả, cực đoan tôn giáo, và chủ trương tục hóa hiếu chiến. Cực hữu tìm cách trở về quá khứ huy hoàng vốn không bao giờ có. Cực tả tìm kiếm thứ tương lai không tưởng, chẳng bao giờ thành. Những kẻ cực đoan tôn giáo tin rằng bạn có thể đem ơn cứu độ đến nhờ bạo lực. Những người chủ trương tục hóa hiếu chiến lại tin rằng cứ gạt bỏ tôn giáo thì sẽ có hòa bình. Tất cả đều là ảo tưởng và theo đuổi những ảo tưởng đó sẽ gây nguy hiểm cho chính những nền tảng của tự do. Tuy nhiên chúng ta đã thấy, kể cả trong nền chính trị Anh quốc và Hoa Kỳ, những hình thái xấu xí và phi lý mà tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ gặp trong đời. Chúng ta đã thấy nơi những khuôn viên đại học ở Anh và Mỹ sự bỏ rơi tự do học thuật nhân danh quyền không được xúc phạm người khác, để không chấp nhận bị chất vấn bởi những quan điểm mà mình không đồng ý. Đó là sự phản bội trí thức trong thời đại chúng ta và nó rất nguy hiểm. Vậy có con đường nào khác không?

Có hai hiện tượng làm tôi say mê từ lâu. Một là sự kiện lạ lùng: bị tụt hậu so với Trung Quốc cả ngàn năm, phương Tây đã vượt lên, kiến tạo khoa học, công nghệ, kỹ thuật, thị trường tự do và xã hội tự do. Thứ hai, sự kiện không kém lạ lùng là người Do Thái và Do Thái giáo vẫn tồn tại hai ngàn năm sau khi Đền thờ thứ hai bị phá hủy, họ mất hết mọi sự làm nền cho hiện hữu của họ như được mô tả trong Kinh Thánh: đất đai, nhà cửa, tự do, Đền thờ, vua chúa, các tiên tri và tư tế.

Cả hai trường hợp có chung lời giải thích. Đó là đối nghịch với cái gọi là gia công, thuê ngoài, (ở đây) là nội tâm hóa điều trước đây ở bên ngoài. Bất cứ nơi đâu người Do Thái cầu nguyện thì đó là Đền thờ. Mỗi lời cầu nguyện là một hy tế, mỗi người Do Thái là một tư tế, mỗi cộng đoàn là một mảnh của Giêrusalem. Điều tương tự cũng xảy ra với Hồi Giáo khi giải thích jihad (thánh chiến) không phải là cuộc chiến tranh về thể lý ngoài chiến địa nhưng như cuộc chiến thiêng liêng trong linh hồn.

Một hiện tượng song hành xảy ra trong Kitô giáo sau thời Cải Cách, nhất là phái Calvin trong thế kỷ 16 và 17 đã biến đổi Hòa Lan, Scotland, Anh Quốc thời Cách mạng và Hoa Kỳ thời lập quốc.

Đây là điều mà Max Weber gọi là tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Thẩm quyền bên ngoài của Giáo Hội được thay thế bằng tiếng nói bên trong của lương tâm. Nhờ đó mạng lưới tín nhiệm rộng rãi được hình thành, và đây là nền móng cho những vận hành của thị trường. Chúng ta đã quá quen việc đối nghịch vật chất với thiêng liêng đến nỗi đôi khi quên rằng từ tín dụng (credit) phát xuất từ động từ tiếng La tinh credo (tin), và quỹ tín thác (confidence), điều kiện thiết yếu của đầu tư và tăng trưởng kinh tế, có gốc từ là fidentia, nghĩa là niềm tin, sự tin tưởng.

Điều nổi lên từ Do Thái giáo và Kitô giáo hậu-Cải cách là tính cách con-người-hướng-nội. Hầu hết các xã hội trong hầu hết lịch sử đều có khuynh hướng, hoặc hướng về truyền thống, hoặc hướng tới người khác. Người ta làm việc này việc kia vì theo truyền thống hoặc vì người khác làm như thế.

Tính cách hướng nội thì khác. Họ trở thành những người tiên phong, những nhà canh tân, những người sống sót. Họ có kỷ luật. Họ chấp nhận làm việc vất vả và đối diện thử thách. Họ ý thức mình phải có trách nhiệm với khách hàng, với nhân viên, với những người đầu tư cũng như với công chúng, vì chỉ như thế họ mới tồn tại lâu dài. Họ không làm những chuyện ngu xuẩn như tạo kế toán giả, thế chấp liều lĩnh, cung cấp data (dữ kiện) giả, vì họ biết rằng không thể giả dối hoài. Họ không vì thành công hiện tại (giả dối) mà đánh mất tương lai, vì họ có ý thức trách nhiệm với tương lai. Họ có khả năng vượt lên trên cơn cám dỗ của bản năng. Họ làm tất cả những điều đó vì tiếng gọi bên trong, có người gọi đó là lương tâm, có người bảo là tiếng Chúa.

Những nền văn hóa như thế sẽ trẻ trung mãi. Sẽ không cạn kiệt năng lực, vốn là điều tạo ra sự suy đồi và gục ngã của các đế quốc và siêu cường khác trong lịch sử. Thế nhưng phương Tây, theo cách nói của Hoàng hậu Elas trong Frozen, đã đánh mất điều này. Tính hướng nội bị thay thế bằng hướng ngoại. Phương Tây đã “cho thuê ” trách nhiệm, giảm thiểu đạo đức học thành kinh tế và chính trị học. Điều đó có nghĩa là chúng ta lệ thuộc vào thị trường và nhà nước, những sức mạnh chúng ta rất khó kiểm soát. Và một ngày kia, hậu duệ của chúng ta sẽ nhìn lại và hỏi, tại sao phương Tây lại để mất điều vĩ đại mình đã đạt được?

Mọi nhà quan sát những biến chuyển lớn của lịch sử, từ các tiên tri của Israel đến các nhà hiền triết của Hồi Giáo, từ Giambattista Vico đến Stuart Mill, từ Bertrand Russell đến Will Durant, đều đã nói cùng một chuyện: các nền văn minh bắt đầu chết khi nó đánh mất niềm đam mê đạo đức đã đưa nó đến thành công. Điều đó đã xảy ra với Hi Lạp và Rôma, và cũng có thể xảy ra cho tất cả phương Tây. Những dấu hiệu thấy rõ là: mức sinh sản giảm, đạo đức suy đồi, bất bình đẳng gia tăng, mất tín nhiệm vào các cơ chế xã hội, kẻ giàu sống buông thả, người nghèo tuyệt vọng, các nhóm thiểu số không thể hội nhập, người ta không chấp nhận những hi sinh trong hiện tại vì thiện hảo của tương lai, mất niềm tin vào những tôn giáo cổ xưa và không có gì để thay thế vào đó. Đây là những tín hiệu nguy hiểm và chúng ta đang nhìn thấy.

Có một lối thoát, đó là hãy hướng nội trở lại. Điều đó có nghĩa là tái khám phá chiều kích đạo đức nối kết thiện ích của chúng ta với thiện ích của người khác, làm cho chúng ta có ý thức cộng đồng về thiện ích chung. Điều đó cũng có nghĩa là tái khám phá chiều kích tâm linh, giúp chúng ta thấy được sự khác biệt giữa cái chúng ta có và cái chúng ta là; phẩm giá của chúng ta vượt lên trên những gì mình có và sở hữu. Điều đó còn có nghĩa là nhớ lại rằng điều quan trọng không phải là thỏa mãn những ước vọng của mình nhưng là tìm xem đâu là ước vọng cần thỏa mãn. Điều đó còn có nghĩa là khơi lại ký ức và căn tính tập thể để xã hội trở thành một mái ấm hơn là nhà nghỉ. Tóm lại, điều đó có nghĩa là hiểu ra rằng có những điều chúng ta không thể và không nên cho thuê ngoài, có những trách nhiệm mà chúng ta không thể và không nên đùn đẩy cho người khác.

Đừng vứt bỏ những điều đã từng làm cho phương Tây thành vĩ đại, và làm như thế không chỉ vì tiếc nuối quá khứ huy hoàng nhưng là vì tương lai đầy thách đố, đó là món nợ của chúng ta với thế hệ con cháu. Nếu chúng ta cứ để mọi sự trôi đi thế này, nếu chúng ta tiếp tục quên rằng một xã hội tự do là sự thành tựu tinh thần và điều đó tùy thuộc vào trách nhiệm của chúng ta, thì điều sẽ xảy ra là – dù là Nga, Trung Quốc, ISIS hay Iran – sẽ chẳng có dân chủ và đương nhiên không có tự do. Chúng ta cần khôi phục những chiều kích đạo đức và tinh thần bằng ngôn ngữ của thế kỷ 21 này, sử dụng những phương tiện truyền thông của thế kỷ này, không phải để gây chia rẽ nhưng là để nối kết.

Những chiều kích đạo đức và tinh thần của nhân loại chính là những gì mà giải Templeton hướng tới, và bằng cách khai triển những chủ đề này ở tầm vóc toàn cầu, cùng với những người khác, tôi hi vọng có thể trả lại phần nào vinh dự mà tôi được đón nhận hôm nay.

Thiên Triệu

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 119 (Tháng 7 & 8 năm 2020)