Chúng ta đọc Phúc Âm thấy rằng Chúa Giêsu đã từ bỏ mọi sự khi Ngài đến sống giữa chúng ta. Chúng ta nhận thấy Lời Hằng Sống hóa thành nhục thể và tự hạ – tùy thuộc vào hậu quả của tình trạng tội nhân của chúng ta, nhưng Ngài không phạm tội. Chúng ta biết rằng Ngài tự hạ là muốn để lại điều gì đó và là người vĩ đại để sống giữa những điều và những con người nhỏ bé.

Thế thôi sao? Nếu vậy, không ai trong chúng ta có thể từ bỏ chính mình, vì chúng ta không thể đi từ cái gì đó to lớn tới cái gì đó nhỏ bé.

Vấn đề của chúng ta bao gồm trong cách phát triển theo tinh thần của Chúa Giêsu: nên giống như Ngài, suy nghĩ như Ngài, nhìn đời như Ngài, và từ bỏ chính mình. Ngài mặc lấy bản tính phàm nhân của chúng ta để chúng ta có thể trở nên con cái của Chúa Cha.

  1. ĐIỀU RĂN MỚI

Vì chúng ta phải nên thánh trong hoàn cảnh sống của chúng ta, bất kể nơi chốn, bất kể tài năng, chúng ta cần tìm hiểu sâu về điều răn mới và tìm hiểu câu trả lời khi tiến thoái lưỡng nan.

Điều răn mới yêu cầu chúng ta yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Để giải quyết cách nên thánh, chúng ta chỉ nhìn vào một phương diện tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta nhưng không bắt buộc chúng ta yêu mến Ngài mà muốn chúng ta biến đổi. Ngài canh giữ chúng ta, ấp ủ chúng ta, hướng dẫn chúng ta, tha thứ chúng ta, ban ơn cho chúng ta, mở rộng Lòng Thương Xót của Ngài khi chúng ta ăn năn sám hối và quyết định sống tốt hơn, Ngài sẽ soi sáng để chúng ta biến đổi.

Tình yêu của Ngài luôn phù hợp với ý muốn và cách sắp xếp của chúng ta. Ngài không đòi buộc nhiều hơn những gì chúng ta có thể cho đi, Ngài không ép buộc chúng ta đi xa hơn khoảng cách mà chúng ta muốn đi. Ngài tuôn tràn tình yêu và ân sủng trên chúng ta khi chúng ta trườn bò, bước đi, chạy nhảy hoặc bay thẳng tới Ngài.

Đó có phải là bí quyết từ bỏ chính mình? Đó có phải là cách yêu thương người lân cận? Đó có phải là cách chúng ta thay đổi và để cho sự thay đổi đó thay đổi người khác? Sự thánh thiện có phải là điều chúng ta cầu xin khi chờ đợi một biến cố lớn xảy ra, hoặc là nguồn sức mạnh để phát triển không ngừng?

  1. SỰ THÁNH THIỆN và CÁC MỐI QUAN HỆ

Người ta sinh sống, làm việc, đi đây đi đó, vui chơi, mua sắm, học hành, và ăn uống với nhau. Có một số cư dân ở hoang địa sống cô đơn mà không lệ thuộc người khác theo cách nào đó. Các mối quan hệ đặt ra cách chướng ngại to lớn và cách trợ giúp lớn lao để nên thánh. Người ta ở đó, giới răn yêu thương được trao cho họ, nhưng chúng ta dùng lệnh truyền đó sơ sài lắm.

Đôi khi chúng ta nghĩ rằng yêu thương là cảm thấy có cảm xúc, nhưng Thiên Chúa không yêu cầu chúng ta “cảm thấy”. Yêu thương là quyết định, nhưng trong quyết định đó là gì? Đó có phải là ý muốn nói rằng “tôi yêu bạn” và rồi quên tuốt luốt chăng? Đó có phải là thi thoảng tha thứ, hy vọng trường hợp như thế sẽ không xảy ra nữa và trở thành không yêu thương khi Lòng Thương Xót lại đòi hỏi?

Làm sao chúng ta từ bỏ mình để Chúa Giêsu có thể tỏa sáng qua chúng ta? Có thể có một từ mô tả đúng điều Chúa Giêsu đã làm và điều chúng ta phải làm, đó là chữ “thích nghi”. Mọi người chúng ta gặp đều khác với chúng ta. Các thành viên trong một gia đình cũng khác nhau. Bạn bè, vợ chồng, anh chị em, các quốc gia, tất cả đều khác nhau. Mọi sự khác biệt tạo nên tình trạng “cảm thấy” yêu thương khác biệt và khác với những người đặc biệt tùy theo sở thích và cá tính của họ.

Chúa Giêsu giúp đỡ nhiều cách, trong các cách đó là thực tế mà chúng ta phải làm tối thiểu, chúng ta phải làm cho Ngài. Nhưng điều này luôn khó làm, bởi vì chúng ta thấy khó nhận ra Chúa Giêsu trong tình huống khó chịu, nơi những con người bất toàn và những trường hợp bất khả dĩ. Chúng ta luôn chờ đợi người khác giống Đức Kitô, cho rằng cách phản ứng của mình sẽ bình an hơn. Tuy nhiên, chúng ta không thể cho phép mình đáp lại lời mời gọi nên thánh tùy thuộc vào sự hoán cải, sự biến đổi hoặc động thái của người khác. Điều gì xảy ra với chúng ta nếu chúng ta không chịu thay đổi, không hành động như Chúa Giêsu, không yêu thương và không hoán cải?

  1. YÊU NGƯỜI KHÔNG THƯƠNG MÌNH 

Điều gì xảy ra với lời mời gọi nên thánh khi những tình huống khó xử xảy ra và nhưng người mình quan tâm lại khó ưa, cáu kỉnh và thù hằn? Chúa Giêsu có muốn chúng ta là cây sậy yếu đuối bị lung lay trước gió? Ngài có chết và đổ máu ra để chúng ta cho phép mình bị đày đọa đủ kiểu bởi tính khí và kiểu khó ưa của người khác?

Chúng ta có viện cớ vì thiếu nhân đức khi chúng ta than phiền rằng rõ ràng Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta nên thánh bởi vì chúng ta không sống trong cuộc đời không hề có các vấn nạn về con người? Chúng ta có nói rằng nếu không vì “người ta” thì chúng ta có thể nên thánh? Đúng, chúng ta là thế, và Chúa Giêsu biết điều đó khi Ngài truyền điều răn mới cho chúng ta.

Chúa Giêsu giải quyết với mọi người mà Ngài gặp theo ánh sáng, nhân đức và lòng quảng đại mà linh hồn họ đạt tới. Ngài biết người thanh niên giàu có kia có thể làm gì nên Ngài mới yêu cầu, nhưng anh ta không muốn từ bỏ. Chính người thanh niên đó buồn bã bỏ đi chứ không phải là Chúa Giêsu. Vì Nguồn Bình An của Chúa Giêsu là Chúa Cha, Ngài có thể hỏi, nhận lời từ chối, chấp nhận chính con người đó trong tình trạng hiện tại của linh hồn đó và vẫn yêu thương người đó.

Chúa Giêsu biết Giuđa sẽ làm gì khi Ngài kêu gọi ông, nhưng điều đó không ngăn cản Ngài kêu gọi ông. Ngài đối xử với Giuđa theo mức độ của ông vào lúc đó. Vào lúc đó, Giuđa là người nhiệt thành, hăng hái và tìm cách vào Nước Trời. Chúa Giêsu chấp nhận ông như chính con người của ông. Ngài vẫn yêu thương ông bằng cách soi sáng cho ông, cảnh báo chúng ta không được làm tôi hai chủ và chịu đựng tính xấu của ông.

Cách phản ứng của chúng ta đối với tha nhân khác với cách của Chúa Giêsu. Chúng ta phê phán động lực chúng ta không thấy, có thể bị lừa vì cứ nhớ chuyện quá khứ và rồi không còn hy vọng để thay đổi trong tương lai.

  1. CHÚA GIÊSU YÊU THƯƠNG CÁC MÔN ĐỆ 

Chúng ta đã thấy cách Chúa Giêsu yêu thương ông Phêrô. Ngài kêu gọi ông, nhẹ nhàng sửa lỗi ông, cảnh báo ông về việc chối bỏ Ngài, nhìn ông và tha thứ, và rồi hỏi ông để ông xác định lòng mến ba lần. Chúa Giêsu không bao giờ nghĩ tới việc tước quyền cai quản Giáo hội mà Ngài đã trao cho ông. Ngài biết nhược điểm (điểm yếu, sở đoản) của ông, sống với ông, lập kế hoạch, dùng các kế hoạch đó để làm cho Phêrô tiến bộ và tin tưởng giao quyền quản lý cho ông. Đó là yêu thương.

Chúng ta có thể chắc chắn rằng các tông đồ không phải lúc nào cũng làm cho Chúa Giêsu thoải mái. Họ đã không hiểu biết sứ vụ cứu độ của Ngài. Ngài dùng các dụ ngôn vượt ngoài tầm hiểu của họ, Ước muốn chịu đau khổ của Ngài là điều mầu nhiệm, khó hiểu các mặc khải của Ngài, giáo huấn của Ngài quá sâu xa đối với trí hiểu của họ. Đôi khi Ngài hiền từ tới mức họ cảm thấy muốn nói với Ngài điều gì đó nhưng họ e ngại, có lúc Ngài lại nổi nóng đánh đuổi những người buôn bán trong Đền Thờ. Mệnh lệnh của Ngài có vẻ nghiêm khắc và khó thực hiện trong khi Ngài sống gương mẫu các lệnh truyền đó. Nhưng những họ vẫn theo Ngài, hy sinh vì Ngài và yêu mến Ngài lắm.

Chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu trưởng thành trong sự hiểu biết thục nghiệm, các môn đệ của Ngài tiến bộ trong ân sủng và khôn ngoan bằng cách chấp nhận lẫn nhau và thích nghi với nhau.

Chúa Giêsu dần dần đem ý nghĩa của các giá trị tới mức cao hơn bằng cách chính Ngài sống theo cách giá trị đó. Ngài dùng dụ ngôn để làm cho họ thấm nhuần. Ngài thường xuyên tha thứ cho họ và yêu cầu họ phải tha thứ 70 lần 7. Biết họ “sốc” khi nghe nói về sự đau khổ, Ngài đề cập cuộc khổ nạn của Ngài sẽ đến và an ủi họ bằng cách tiên báo về sự phục sinh của Ngài. Khi họ hỏi thì Ngài trả lời, Ngài đưa ra các chân lý cao siêu mà không làm cho họ ngơ ngẩn. Ngài làm cho họ kiên nhẫn bằng cách bảo họ cho năm ngàn người ăn với vài chiếc bánh và vài con cá, rồi chính Ngài hóa bánh ra nhiều để họ vui vẻ làm điều “không thể”.

Ngài tin họ và kiên nhẫn chờ đợi những điều đó đơm hoa kết trái, nhưng lúc đó Ngài gặp họ ở chính con người của họ, Ngài biết rằng ân sủng sẽ đem lại những phẩm chất tốt ẩn giấu bên trong họ.

Sự thánh thiện của Ngài phá tan bóng tối, và bóng tối tan biến trong ánh sáng thánh thiện của Ngài. Khi họ biết cách làm cho người khác như Ngài đã làm cho họ, chính họ cũng trở nên ánh sáng trong bóng tối, có thể tạo ra các phẩm chất tốt đẹp của linh hồn, và chính họ cũng trở nên thành phần của “ánh sáng chiếu soi mọi người” (Ga 1:9).

  1. HIỂU BIẾT TÍNH THÍCH NGHI

Chúng ta có thể gọi khả năng này là “hiểu biết tính thích nghi”. Nó nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu và vì nguồn ánh sáng đó vô tận, ánh sáng đó bừng sáng và chạm vào người khác. Thánh Phaolô mô tả “tính thích nghi” đó khi khuyên mọi người phải từ bỏ mình vì người khác: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:3-7).

Bí quyết từ bỏ mình, yêu thương tha nhân như Thiên Chúa yêu thương chúng ta và sống các mối phúc, đó là:

– Chấp nhận Thiên Chúa theo điều kiện của Ngài.

– Chấp nhận chúng ta là chính mình.

– Chấp nhận người khác là chính họ.

Khi chúng ta chấp nhận Thiên Chúa, chúng ta sẽ làm theo Ý Ngài – khi nhận chúng ta là chính mình, chúng ta nhận ra sự yếu đuối của mình và sự lệ thuộc vào ân sủng của Ngài. Sự lệ thuộc này làm cho chúng ta nhận ra rằng Ý Chúa cao siêu đối với chúng ta, và thực tế này cho phép chúng ta nhìn tha nhân theo ánh sáng mới. Chúng ta chấp nhận chính con người của người đó. Khi người khác tức giận, chúng ta được Thiên Chúa mời gọi cách cư xử tế nhị vào lúc đó, vì họ cần nhận ra sự hiều từ – nghĩa là chúng ta khiêm tốn.

Khi tính của người khác “khó khăn”, chúng ta thể hiện tình yêu thương bằng cách tránh làm cho họ “khó chịu”. Kinh nghiệm cho chúng ta biết điều gì làm người khác không vừa lòng vì chúng ta không cẩn thận làm hoặc nói những điều khiến họ tức giận. Chúng ta phải từ bỏ mình, chấp nhận sự yếu đuối của người khác và cố gắng phản ứng như Chúa Giêsu. Nghĩa là “từ bỏ mình và tự nhận mình mang thân phận nô lệ”, như Thánh Phaolô nói: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6:2). Chúng ta cẩn trọng và lưu ý những điều làm vui lòng người khác – với điều kiện điều đó không là tội lỗi, cố gắng tránh những điều làm phiền người khác, tự thích nghi với sở thích của người khác và cách cư xử của người khác.

Điều này đặt chúng ta vào tình yêu thương từ bỏ chính mình. Chúng ta trở nên tấm gương sống động về các mối phúc. Thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, ANH EM LẠI LÀ ÁNH SÁNG. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5:8-9).

Khi chúng ta thích nghi cách nói chuyện, tính khí, kiến thức, nhân đức, sở thích của chúng ta với tình trạng của người khác, đó là chúng ta yêu thương họ như Chúa Giêsu – chúng ta là ánh sáng trong bóng tối, là con cái của Thiên Chúa. Như vậy là chúng ta sống theo lời khuyên của Thánh Phaolô: “Anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt” (Ep 5:1-2).

Đó là chết cho chính mình, từ bỏ mình vì người khác, đó là sự thánh thiện trong chính con người thật của chúng ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Một số người được mời gọi quên mình vì người khác, nhưng chúng ta cũng có thể từ bỏ mình vì cách phản ứng của chúng ta, chiến thắng tính yếu đuối của chúng ta, quên chính mình và chấp nhận chính con người của người khác – đó là cái chết về tinh thần.

Không phải là lúc nào Chúa Giêsu cũng bằng lòng với cách hành xử của các môn đệ, nhưng Ngài tự thích nghi với tính khí của họ, cầu nguyện cho họ, làm gương cho họ. Ngài yêu thương họ và vui mừng khi họ thay đổi.

Chúng ta thấy các môn đệ và các Kitô hữu đầu tiên làm điều này sau Lễ Ngũ Tuần: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. KHÔNG một ai coi bất cứ cái gì mình có là CỦA RIÊNG, nhưng đối với họ, MỌI SỰ ĐỀU LÀ CỦA CHUNG” (Cv 4:32). Sự kết hiệp của tâm hồn và linh hồn là bất tử nếu người đó từ bỏ chính mình, nghĩ về cách làm vui lòng người khác hơn là làm vui chính mình.

Chúa Giêsu đã đề cập điều đó khi Ngài nói với các môn đệ: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:13-15). Đó là Ngài nói về mỗi chúng ta, những người có tinh thần yêu thương và khiêm nhường khi chúng ta phục vụ lẫn nhau. Sự phục vụ đó không chỉ về thể lý, mà còn về cách nhẫn nhục và chịu đựng, bằng cách cẩn thận liệu trước tính khí và sự yếu đuối của người khác, và bằng tình yêu thương từ bỏ chính mình.

Để kiên nhẫn trong nhiệm vụ cay đắng và ngọt ngào của tình yêu thương thánh đức, chúng ta phải duy trì mối quan hệ mật thiết với Thiên Chúa, nền tảng của đức khiêm nhường và sự tự biết mình.

  1. ĐẾN VỚI THA NHÂN

Sức mạnh tinh thần không thể có trong chính nó, mà nó phải đi đến với người khác. Như vậy là chúng ta được Thiên Chúa truyền lệnh phải yêu mến Thiên Chúa hết sức và hết lòng, và yêu thương tha nhân như Ngài yêu thương – đó là tình yêu thương tuôn chảy giữa Thiên Chúa và linh hồn chúng ta, giữa linh hồn chúng ta và tha nhân.

Khó lắm, nhưng sức nặng thập giá đó còn nhẹ nhà khi so sánh với sức nặng của những cơn giận không được kiểm soát, sự cố chấp ý kiến, sự không cố gắng biến đổi chính mình, sự oán giận, sự hối tiếc và tội lỗi. Chấp nhận hiện tại như Chúa Giêsu sẽ làm cho gánh nặng trở nên nhẹ nhàng: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:29-30).

Ân sủng ở ngay trong những gì xảy ra cho bạn vào thời điểm đó. Sử dụng điều đó như thế nào? Ủng hộ hay chống đối? Thánh Phaolô nói: “Anh em là những người trong dân thánh, những người được hưởng chung ơn gọi bởi trời, anh em hãy ngắm nhìn Đức Giêsu là Sứ Giả, là Thượng Tế, là Trung Gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin” (Dt 3:1).

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nên thánh trong mọi thứ xảy ra. Hãy để cho cuộc đời mình reo vang như tiếng chuông trong trẻo để nói với người khác: “Đức Giêsu là Thiên Chúa. Chúa Giêsu yêu thương bạn”.

 

MẸ ANGELICA

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ https://catholicexchange.com/jesus-holiness-action)