III. Sống Ðạo


Ðiều đương nhiên là “Ðạo nào cũng dạy làm lành lánh dữ,” “làm thiện lánh ác.” Ðối chiếu Công giáo với Phật giáo chúng ta thấy những điểm giống nhau trong phạm vi sống đạo, thực hành đạo hay phạm vi luân lý. Chúng ta có thể đan cử:

1. Công giáo: Sống Lời Chúa. Khi trong đám đông nghe Chúa Giêsu giảng dạy, có tiếng kêu lên: “Phúc thay cho lòng đã cứu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú,” lập tức Người đáp lại: “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phúc hơn” (Luca 11,27-28). Chỗ khác, khi Chúa còn đang giảng, có người đến thưa: “Mẹ và anh em Thầy đang đứng ở ngoài, họ tìm Thầy,” Người liền đưa mắt nhìn đám dân chúng vây quanh và bảo: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?... Ai vâng theo ý Cha Ta ở trên trời thì người đó là anh em Ta, là mẹ Ta” (Mát-thêu 12,50). Nghe lời Chúa và thực hành ý Chúa, chính là tuân thủ giới răn Chúa truyền. Và đó là điều kiện để nên trọn lành, để được sự sống. Lần kia có chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?,” Chúa trả lời vắn gọn: “Ðể được sống đời đời, bạn hãy tuân giữ các giới răn Thiên Chúa truyền dạy” (Mát-thêu 19,16-17). Nhiều lần Chúa đã dạy: “Nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ giới răn của Thầy” (Galát 14,24; x. Mác-cô 16,15; Galát 14, 21 và 24);...

Phật giáo: Qui Y Tam Bảo là “trở về với ba điều quý: Phật, Pháp, Tăng. Xét về sự là gửi thân vào Ðức Phật, vào Ðạo Phật, vào Tăng chúng của Phật; Về lí là nương theo đức Giác có đủ Phước và Huệ, nương theo sự Chánh, không theo tà kiến, nương theo đức Tịnh không nhiễm trược, không chấp nệ 32 và giữ Ngũ giới là năm điều cấm mà các Phật tử “tu tại gia” không được làm: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói sai sự thật, không uống rượu 33.

2. Công giáo: Bác Ái. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã công bố: “Phúc cho những kẻ có lòng thương xót, vì họ sẽ được thương xót. Phúc cho những kẻ yêu chuộng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mát-thêu 5,6 và 9). Rất nhiều lần Chúa truyền dạy chúng ta “phải tha thứ cho người khác” (Mát-thêu 5, 21-26), “phải yêu thương cả thù địch của chúng ta” (Mát-thêu 5, 43-48) “phải viếng thăm người đau ốm, tù tội... và Chúa đồng hóa việc bác ái chúng ta làm cho một người hèn mọn nhất như là làm cho chính Chúa” (x. Mát-thêu 25,31-46 Mác-cô 12,28-34). Xin hãy đọc thêm “bài ca bác ái” của Thánh Phaolô (1Côrintô 13,1-33) và “kinh hòa bình” của Thánh Phanxicô thành At-si.

Phật giáo: Từ, Bi, Hộ, Xả: Từ là “lòng lành,” do tấm lòng ấy mà làm lợi ích, an lạc cho chúng sanh; Bi là “lòng xót,” do tấm lòng ấy mà cứu tai nạn, khổ não cho chúng sanh; Hộ là “lòng vui,” tự mình vui và mừng giùm cho chúng sanh khi họ được điều thiện; Xả là “lòng thí xả,” tha thứ cho người, tự mình hi sinh để giúp cho chúng sanh được an lạc, không kể kẻ lạ người quen, kẻ oán người thân. Ðó là Tứ Vô Lượng mà Ðức Phật, nhờ tu trì đã đạt được. Niết Bàn Kinh (quyển 15) chép: “Ai tu Từ thì có thể dứt lòng tham dục, ai tu Bi có thể dứt lòng sân nhuế, ai tu Hỉ có thể dứt lòng buồn oán, ai tu Xả có thể dứt lòng tham dục và sân nhuế” 34.

3. Công giáo: Cầu Nguyện. Phúc âm kể rằng Chúa Giêsu đã cầu nguyện trong khi Người chịu phép rửa (Luca 3,21), trước khi Người đi rao giảng (Mát-thêu 4,1), trước khi Người tuyển chọn các Tông đồ (Mác-cô 6,12), khi biến hình trên núi Tabor (Mác-cô 9,29), trong bữa tiệc li, trong vườn cây dầu (Mát-thêu 26,4) và ngay trên Thánh giá (Luca 13,34). Không chỉ làm gương, nhiều lần Chúa còn dạy chúng ta phải cầu nguyện. Thánh Luca nói rõ: Chúa có ý dùng dụ ngôn “một bà góa đã kiên tâm nài nẵng, khiến ông quan án cứng lòng phải nể” cốt dạy chúng ta phải cầu nguyện (Luca 8,1...). Cũng theo thánh Luca, khi vừa vào vườn cây dầu, Chúa đã căn dặn các tông đồ: “Chúng con phải cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ” (Luca 22,39) (x. Mát-thêu 6,5-13; Luca 11,9-13; Ga 16,23-27)...

Phật giáo: Tụng Niệm, là Tụng Kinh và Niệm Phật. Hết tụng kinh rồi lại niệm Phật, miệng thì tụng Tên Phật, lòng tin tưởng Ðức Phật. Cất tiếng cao mà tụng Kinh và niệm Phật sẽ được 10 ơn ích: Bài trừ chướng ngủ, thiêu ma kinh sợ, tâm chẳng tán loạn, chư Phật hoan hỉ... 35.

4. Công giáo: Sám hối, kiêng thịt ăn chay. Chúng ta hãy đọc lại những bài mở đầu Phúc âm của Matthêu (3,1-12), của Maccô (3,1-8), và đọc thêm: Thánh Vịnh 50, Dân Số 6,2; Ðnl 9,9; 12,16; Cv 15,20, để thấy tầm quan trọng của tâm tình thống hối mà Chúa đòi hỏi và kêu gọi chúng ta. Về chay tịnh, xin đọc phúc âm thánh Matthêu để thấy Chúa đã làm gương như thế nào (Mát-thêu 4,2-11) và dạy phải ăn chay làm sao (6,16-18)). Luật hiện hành của Giáo Hội cũng qui định về việc thống hối và chay tịnh (Giáo Luật 1249-1253)...

Phật giáo: Sám hối, ăn chay trường, cấm sát sanh: Phật dạy: “Phàm còn xuống lên ba cõi, lặn lội trong sáu đường, thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi.” Thường các chư Tăng và thiện nam tín nữ tụng kinh sám hối (Hồng Danh Sám) vào tối ngày 14 và 30 hay 29 mỗi tháng 36. Ăn chay là cữ ăn những chất thịt, cá, cữ uống rượu, cữ ăn năm món nồng (hành, tỏi, hẹ, kiệu, ngò). Có “chay kì” là ăn chay có kì hạn nhất định trong mỗi tháng, mỗi năm (nhị trai, tứ trai, lục trai, thập trai, nhất nguyệt trai), và có “chay trường” là ăn chay luôn trong mỗi ngày không gián đoạn cho đến hết đời. Ăn chay là một phương pháp tu hành của người Phật tử. Họ hiểu sâu xa lời Phật nói “Sự sống sống bằng sự chết” 37. Sát sanh là giết mạng sống của chúng sanh. Theo Niết Bàn Kinh, tội sát sanh có ba cấp: Cấp hạ khi giết từ một con kiến cho đến một mạng súc sanh, vì bất cứ một loài vật nào cũng có thể tạo ra chút ít thiện căn. Giết nó là phải chịu tội báo. Cấp trung khi giết một mạng người phàm cho đến một vị tu hành đắc quả Anahàm, lúc đó sẽ bị đọa vào ba đường ác trụy: địa ngục, ngã quỉ, súc sanh. Cấp thượng khi giết cha mẹ cho đến bực Alahán, lúc đó sẽ bị đọa vào Atì đại địa ngục, chịu khổ vô cùng đời đời. Người ta còn phân biệt: “sát tâm” là cố ý giết hại hay vui thích việc giết hại; “sát duyên” là mình làm duyên cớ cho việc giết hại; “sát pháp” là dùng kế hoạch để giết hại (đánh, chém, thuốc độc...). Khi thọ giới, một Phật Tử phát nguyện: “Ðệ tử nguyện giữ không sát hại các loài sanh vật, không tự mình sát, không bảo người ta sát hại, hoặc thấy người khác sát hại mà lấy làm vui” 38.

5. Công giáo: Làm phúc, bố thí, dâng cúng, từ thiện. Chỉ cần đọc lại bài Phúc Âm của Thánh Matthêu về “ngày phán xét chung” (25,31-46), hay truyện “người giàu có và ông Lagiarô nghèo đói bệnh tật” trong phúc âm Thánh Luca (16,19-31) đủ thấy Chúa dạy người Kitô hữu phải thực hành việc làm phúc bố thí như thế nào. Cũng có thể đọc thêm: Ðnl 26,12...; Mát-thêu, 19,21; Mác-cô 12,41-44; Luca 11,41; 1Co 16,2. Việc dâng cúng vào nhà thờ, cho Giáo Hội, cho các tổ chức từ thiện vẫn là điều được nhắc nhở và kêu gọi... Kinh “Thương người có 14 mối” giáo dân quen đọc mỗi chủ nhật, tóm gọn những điều phải bố thí, làm phúc...

Phật giáo: Cúng, cúng dường: Cung cấp vật thực, đồ quý hoặc hương, đăng, hoa, quả hay tiền bạc vào Phật sự. Có nhiều cách cúng dường: “Cúng dường Phật” là dâng hương hoa nhang đèn đốt lên; “Cúng dường Tăng” là giúp các ngài tiện bề tu học và cầu nguyện cho mình; “Cúng dường Tam Bảo” là khi đến chùa cúng dường chung cho cả Phật, Pháp, Tăng; “Cúng dường cứu tế” là dâng của cải, tiền bạc, tài năng để giúp người nghèo, hay bệnh nhân, là việc xã hội. Có ba mục đích Cúng dường: để cung kính và sùng mộ; để hạnh nguyện; cho người quá cố hay cho bản thân mai ngày 39. Còn việc Bố Thí cũng rất quan trọng, vì chính nhờ việc bố thí trong những kiếp trước mà Ðức Thích Ca mau lên quả Phật. Trong Phật giáo có hằng trăm bài kinh về sự bố thí quen gọi là “tập bá duyên kinh” 40.

...

Chúng ta còn có thể nêu ra nhiều điểm khác nữa như “Ðức hiếu thảo đối với cha mẹ”; “đức thật thà trong lời nói và cách sống” v.v...

Ðến đây chúng ta phải nói lên rằng: Những điểm trên chỉ gặp nhau hay giống nhau về “Sự Kiện” (faits) nhưng rất khác nhau về “Ý Nghĩa” (sens). Bởi lẽ tất cả những việc làm “bác ái, từ bi,” “cầu nguyện, tụng niệm,” “sám hối, ăn chay” hay “làm phúc, cúng dường”... là biểu lộ cụ thể hay thực hành cụ thể những điều tin trong đạo. Thế nhưng như trên chúng ta đã thấy “niềm tin” liên quan đến Thiên Chúa, đến con người và vũ trụ thụ tạo đã quá khác nhau giữa Công giáo và Phật giáo, thì do đó những việc sống đạo cụ thể trên đây rất khác xa nhau về “Ý Nghĩa”: Người Công giáo sống bác ái, cầu nguyện... bao giờ cũng qui về mình, về tha nhân, và về Thiên Chúa; còn người Phật giáo sống từ bi, tụng niệm... chỉ qui về mình hay về người khác mà thôi. Bởi lẽ họ không tin có Thiên Chúa.

Kết luận, khi đối chiếu Công giáo với Phật giáo, câu “Ðạo nào cũng giống nhau, cũng dạy làm lành lánh dữ,” không đúng về phạm vi “Niềm Tin,” chỉ đúng một phần nhỏ về phạm vi “Sống Ðạo,” nghĩa là giữa Công giáo và Phật giáo có những việc “sống đạo” giống nhau về “Sự Kiện,” nhưng rất khác nhau về “Ý Nghĩa.” Trong khi đó, ý nghĩa quan trọng hơn sự kiện.