Phụ Tá Quản Trị Cho Hiệu Trưởng

 

Chúng tôi không biết phải làm gì. Trong tháng Bảy chúng tôi không còn biết đến những gì xảy ra chung quanh. Sau khi cầu nguyện nhiều, chúng tôi quyết định phải trở về thành phố với mái trường xưa nơi chúng tôi lần đầu gặp gỡ. Khi về đó, tôi xin việc ở nhiều nơi, nhưng trường này thuê tôi làm phụ tá quản trị cho ông hiệu trưởng. Trong hai năm tôi làm việc ở đây, đó là thời gian lý tưởng vì tôi làm việc ban ngày và ban tối được tự do theo đuổi công việc nghiên cứu.

Trong vòng hai năm, tôi đọc qua hàng trăm cuốn sách, và lần đầu tiên bắt đầu nghiên cứu các thần học gia Công Giáo cũng như các học giả Kinh Thánh. Và tôi sửng sốt trước các quan điểm thật sâu sắc của họ, và hơn thế nữa, các quan điểm ấy phù hợp với những điều tự tôi khám phá. Tôi không thể tin được rằng các khám phá lạ thường, mới mẻ mà tôi vất vả có được thì họ lại cho là đương nhiên như vậy, và điều đó làm tôi áy náy.

Có những lúc tôi bước ra khỏi thư phòng và đọc cho Kimberly nghe rồi nói, “Em nghe đoạn này và đoán thử tác giả.” Vì cô ta cũng là một thần học gia trong một ý nghĩa nào đó, và cô quá bận rộn với việc chăm sóc con cái nên không có nhiều thời giờ. Nhưng cô cũng ngồi xuống lắng nghe và tôi hỏi, “Em nghĩ đó là ai?” Cô trả lời, “Chà! Hay quá. Nghe như một trong những bài giảng của anh ở Virginia. Em muốn nghe lại hết sức.” Tôi nói, “Đó là văn kiện Gaudium et Spes của công đồng Vatican II. Đó là Giáo Hội Công Giáo.” Cô gay gắt, “Em không muốn nghe điều đó.” Tôi nói, “Em thấy đó, đoạn văn nói về phụng vụ này thật tuyệt vời. Anh không rõ, nhưng anh nghĩ có lẽ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên người Anh Giáo.” Đó mới nửa đường về nhà. Cô ta nhìn tôi, nước mắt lưng tròng và nói, “Người Anh Giáo! Em là một người Presbyter, cha của em là mục sư Presbyter, chú của em là một mục sư Prebyter, chồng em từng là một mục sư Presbyter, anh trai của em muốn trở thành mục sư, và chính em cũng muốn trở thành mục sư. Em không muốn là một người Anh Giáo.” Vào lúc đó, cô cảm thấy bị bỏ rơi, bị phản bội.

Tôi nhớ đến điều đó vì một vài tháng sau, sau khi đọc thêm nhiều, một tối kia tôi đến nói với vợ, “Kimberly, anh chưa chắc chắn, nhưng anh bắt đầu nghĩ rằng có lẽ Thiên Chúa kêu gọi anh để trở thành một người Công Giáo La Mã.” Trông cô ta càng tuyệt vọng hơn. Cô nói, “Có thể nào chúng ta trở nên người Anh Giáo không? Giáo phái nào cũng được ngoại trừ Công Giáo.” Quý vị Công Giáo từ nhỏ không thể nào hiểu được điều này. Quý vị không thể biết được sự sợ hãi như thế nào khi nghĩ đến phải bơi qua sông Tiber, khi phải thần phục Đức Giáo Hoàng. Cô ta ngày càng tuyệt vọng. Cô bắt đầu cầu xin để có ai đó cứu vớt chồng cô - có thể là giáo sư, thần học gia hay bạn hữu nào đó.

 

Hành Trình Đến Với Đạo Công Giáo

 

Sau cùng thì điều đó xảy đến. Một ngày kia tôi nhận được điện thoại từ Gerry, người bạn thân từ khi ở chủng viện. Một môn sinh Phi Beta Kappa về văn học Hy La và Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp. Anh là sinh viên duy nhất ở chủng viện cùng với tôi chủ trương rằng, theo sự tin tưởng xa xưa của Tin Lành, Đức Giáo Hoàng từng là người phản-Kitô. Chúng tôi từng sát cánh nhau chống đối mọi sự tương nhượng thấy được trong các nhánh Tin Lành anh em. Tôi đọc cho anh ấy nghe một đoạn từ cuốn sách của Cha Bouyer. Anh nói, “Chà, thật phong phú và sâu xa. Ai viết đó?” Tôi nói, “Louis Bouyer.” “Bouyer? Tôi chưa bao giờ nghe cả, ông ấy là gì?” Tôi hỏi, “Anh muốn nói gì?” “Có phải là một người Methodist không?” Tôi nói, “Không.” “Một người Baptist?” “Không.” “Vậy là người Lutheran sao? Hắn là gì?” Tôi nói, “Ông ấy là một người Công....” “Xin lỗi, tôi nghe không rõ.” Tôi nói, “Ông ấy là Công Giáo La...” “Khoan đã, hình như điện thoại nghe không rõ. Tôi nghe anh nói ông ấy là Công Giáo.” Tôi nói, “Gerry này, tôi nói ông ấy là Công Giáo và thực sự là Công Giáo, và tôi từng đọc rất nhiều sách của người Công Giáo.”

Bất thình lình như dòng thác Niagara tuôn trào, tôi nói một hơi, “Tôi từng đọc Danielou, và Ratzinger, và de Lubac, và Garrigou-Lagrange và Congar, và tất cả đều thật phong phú; anh cũng phải nghiên cứu họ.” Gerry nói, “Từ từ. Này Scott, có lẽ linh hồn anh đang bị nguy hiểm.” Tôi nói, “Gerry, tôi có thể gửi cho anh tên của những cuốn đó không?” Anh nói, “Dĩ nhiên, tôi sẽ đọc, sẽ làm bất cứ gì để cứu anh khỏi cái cạm bẫy này. Và tôi sẽ cho anh tên những cuốn khác.” Anh kể ra khoảng mười cuốn sách chống đối Công Giáo. Tôi nói, “Gerry, tôi từng đọc các cuốn này rồi, tối thiểu một hai lần.” Anh nói, “Vậy hãy gửi cho tôi tên các cuốn sách ấy,” và tôi đã gửi cho anh.

Khoảng một tháng sau, chúng tôi sắp xếp để nói chuyện lâu trên điện thoại. Kimberly thì càng phấn khởi hơn; ít ra một hiệp sĩ Phi Beta Kappa trong áo giáp sáng loáng đã đến để giải cứu chồng cô khỏi nanh vuốt của đạo Công Giáo. Do đó cô ta hồi hộp chờ đợi khi cuộc nói chuyện chấm dứt, và tôi cho cô biết là Gerry thật khích động vì anh ta đang đọc tất cả những thứ đó và bắt đầu nghiêm trọng để ý đến lời của tôi. Cô nói, “Ô hay quá, em biết là anh ấy sẽ giúp mình mà.”

Điều đó tiếp diễn trong ba bốn tháng. Chúng tôi nói chuyện điện thoại “long distance” hai ba tiếng, có khi đến bốn tiếng đồng hồ để thảo luận về thần học và Kinh Thánh cho đến ba bốn giờ sáng. Kimberly thật vui mừng và cám ơn Gerry vì anh ấy đã quá lo lắng cho tôi.

Một đêm kia, tôi bước vào phòng ngủ khoảng hai ba giờ sáng; cô ta vẫn thức. Đèn đã tắt, nhưng cô ấy ngồi trên giường và hỏi, “Sao thế nào?” Tôi nói, “Tốt lắm.” “Nói cho em nghe đi.” Tôi nói, “Gerry thì hầu như say sưa và khích động về những chân lý trong Kinh Thánh mà Giáo Hội Công Giáo đề ra.” “CÁI GÌ!” Tôi không thể thấy rõ khuôn mặt của cô ấy, nhưng tôi cảm được nó xệ xuống khi cô chùn người xuống tấm đệm, úp mặt vào gối và nức nở. Tôi cũng không thể choàng tay lên người vợ tôi; cô ta thực sự bị tổn thương và bị bỏ rơi.

Một ít sau Gerry lại gọi tôi và nói, “Nghe đây, tôi hơi lo sợ. Các bạn tôi cũng vậy. Chúng ta đừng coi thường điều này. Tôi đã nói chuyện với Tiến Sĩ John Gerstner, đây là một người Presbyter có bằng cấp ở Harvard, một thần học gia chuyên bài bác Công Giáo. Ông ta sẽ gặp chúng mình nếu muốn.” Chúng tôi sắp xếp để Gerry, Tiến Sĩ Gerstner và tôi gặp nhau trong sáu tiếng đồng hồ, cùng nhau đi qua Cựu Ước bằng tiếng cổ Do Thái, Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp, và các tài liệu và công đồng trong lịch sử Giáo Hội. Sau sáu giờ đồng hồ, Gerry và tôi hy vọng sẽ thoát khỏi vũng nước nhờ bậc kỳ tài này. Thay vào đó, điều mà chúng tôi khám phá ra là Giáo Hội Công Giáo hầu như không cần đến một sự tự vệ nào cả. Giống như một con sư tử; chỉ cần đưa ra khỏi chuồng là đủ. Chúng tôi đưa ra các giảng dạy của Giáo Hội và các văn bản trong Kinh Thánh, và chúng tôi cảm thấy là ông ấy không thể trả lời cho bất cứ câu hỏi nào. Sau cùng, chúng tôi hầu như kinh ngạc tự hỏi, “Điều này có nghĩa gì?” Không ai trong chúng tôi biết được. Các môn sinh bài bác Công Giáo tích cực nhất đang tự hỏi không biết Thiên Chúa có phải là một người Công Giáo hay không-chúng tôi thật kinh sợ.

Trong khi đó tôi gửi đơn xin việc đến Đại Học Marquette vì tôi nghe họ có một vài thần học gia nổi tiếng có nền tảng trên giao ước đang nghiên cứu về Giáo Hội và thực hiện được nhiều điều tốt đẹp. Ngay trước khi tôi được trả lời là họ chấp nhận và được học bổng, tôi đến thăm một vài linh mục trong vùng. Tôi lo sợ. Tôi thi hành điều đó vào ban đêm để không ai thấy. Tôi cảm thấy mình dơ bẩn và ô uế khi bước vào nhà xứ. Tôi ngồi xuống và sau cùng nêu lên vài câu hỏi, mỗi linh mục đều nói với tôi. “Hãy nói về điều gì đó ngoài vấn đề thần học.” Không một linh mục nào muốn thảo luận về các thắc mắc của tôi. Một trong các linh mục thực sự nói rằng, “Ông nghĩ đến vấn đề trở lại đạo sao? Đừng, đừng làm vậy. Kể từ công đồng Vatican II chúng tôi không khuyến khích điều đó. Điều tốt nhất ông có thể thi hành cho Giáo Hội là hãy trở nên một mục sư tốt lành.” Tôi nói, “Thưa Cha,...” “Đừng, hãy gọi tôi là Mike.” Tôi trả lời, “OK, Mike. Tôi không xin ông bẻ tay tôi và buộc tôi vào đạo. Tôi nghĩ là Chúa gọi tôi.” Ông ấy nói, “Nếu bạn muốn sự giúp đỡ của tôi thì bạn đã đến lầm người.”

Sau khoảng bốn năm lần gặp gỡ như vậy, tôi thật hoang mang. Tôi chia sẻ điều này với vợ tôi. Cô ấy nói, “Anh phải đến một trường Công Giáo để theo học toàn thời gian, là nơi anh có thể nghe từ nguồn tin đáng tin cậy, là nơi anh biết chắc là Giáo Hội Công Giáo mà anh tin thì vẫn còn hiện hữu.” Cô ta nói đúng. Do đó sau khi cầu nguyện nhiều và chuẩn bị, chúng tôi di chuyển sang Milwaukee là nơi tôi hoàn tất chương trình tiến sĩ trong hai năm.

Hai năm đó là những năm học hỏi dồi dào nhất chưa từng có và cũng là quãng thời gian phong phú nhất để cầu nguyện. Dù rằng tôi thấy mình ở giữa các chủng sinh mà ở đó tôi thực sự là một người Tin Lành duy nhất bảo vệ các giáo huấn của Giáo Hội chống với những tấn công của chính người Công Giáo. Thật kỳ lạ, Tỉ như, sự giảng dạy của Đức Gioan Phaolô thì thật phù hợp Kinh Thánh và đầy tính cách giao ước. Tôi giải thích điều này cho họ. Nhưng không nhiều thần học gia có thể lĩnh hội một cách đầy đủ. Tôi thực sự vui thích với quãng thời gian ấy. Nhưng đồng thời có vài điều đã xảy ra, thực sự có hai điều.

Thứ nhất, tôi bắt đầu lần chuỗi. Tôi thực sự lo sợ khi thi hành điều này. Tôi xin Chúa đừng bực mình khi tôi thử. Tôi bắt đầu đọc kinh, và khi đọc tôi cảm thấy trong tâm hồn điều mà tôi biết trong tâm trí: tôi là con cái của Thiên Chúa. Tôi không chỉ có Thiên Chúa là Cha và Đức Kitô là người anh; tôi còn có Mẹ của Người cho chính tôi.

Một người bạn nghe biết điều tôi đang suy nghĩ về Giáo Hội Công Giáo gọi điện thoại cho tôi và nói: “Anh có thờ Đức Maria như những người Công Giáo không?” Tôi nói, “Họ không thờ Đức Maria; họ vinh danh Đức Maria.” “Vậy có gì khác biệt?” Tôi nói, “Để tôi giải thích. Khi Đức Kitô chấp nhận lời mời gọi của Chúa Cha để làm xuống thế người, Người chấp trách nhiệm vâng phục luật lệ, được tóm lược trong Mười Điều Răn. Có một điều răn nói rằng, 'Phải tôn kính cha mẹ.'” Tôi nói thêm, “Trong tiếng cổ Do Thái, chữ 'kaboda' (tôn kính), có nghĩa vinh danh, dành bất cứ vinh dự và sự tôn kính nào của mình cho cha mẹ. Đức Kitô đã chu toàn lề luật ấy một cách tuyệt hảo hơn bất cứ ai khác bằng cách dành vinh dự của Người cho Cha trên trời và dành vinh dự của một vị chúa để vinh danh Mẹ Người. Tất cả những gì chúng tôi thi hành khi lần chuỗi là bắt chước Đức Kitô là Người đã vinh danh Mẹ Người với chính sự vinh hiển của Người. Chúng tôi vinh dành Đức Maria với sự vinh hiển của Đức Kitô.”

Điều thứ hai xảy ra khi tôi âm thầm lẻn vào nhà nguyện dưới tầng hầm ở Marquette, Gesu. Ở đó có Thánh Lễ ban trưa và chưa bao giờ tôi dự lễ. Tôi ngồi ở ghế sau cùng. Tôi không quỳ. Tôi không bái gối, tôi cũng không đứng. Tôi là một quan sát viên, tôi đến đó để theo dõi. Nhưng tôi thật ngạc nhiên khi thấy 40, 50, 60, 80 hay 100 người đến tham dự Thánh Lễ buổi trưa, họ là những người bình thường đến nhà nguyện, bái gối, qùy cầu nguyện. Sau đó có tiếng chuông và tất cả đứng dậy. Thánh Lễ bắt đầu. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy.

Phụng Vụ Lời Chúa thật dồi dào, không chỉ có các bài đọc. Tôi nghĩ trong Thánh Lễ ngày thường họ đọc Kinh Thánh dài hơn ngày Chúa Nhật. Nhưng lời kinh của họ thấm đẫm ngôn ngữ Kinh Thánh và các trích dẫn từ Isaia và Egiêkien. Tôi ngồi đó tự nhủ, “Đó là Giêkaria; đó là Êgiêkien. Chà! Như thể KinhThánh đi vào đời sống và nhảy múa ngay trên cung thánh và nói, 'Đây là chỗ của tôi.'”

Sau đó phần Phụng Vụ Thánh Thể bắt đầu. Tôi nhìn xem và lắng nghe khi linh mục đọc lời thánh hiến và nâng bánh thánh lên cao. Vào lúc đó, tôi phải thú nhận là giọt hồ nghi sau cùng không còn nữa. Tôi nhìn đến Mình Thánh và nói, “Lạy Chúa và Thiên Chúa của con.” Khi dân chúng tiến lên rước lễ, tôi thực sự đầm đìa nước mắt, “Chúa ơi, con muốn có Chúa. Con muốn hiệp thông trọn vẹn với Chúa. Chúa đã đến tâm hồn con. Chúa là Cứu Chúa và là Chúa của con, nhưng giờ đây con nghĩ Chúa muốn đến với lưỡi con và bao tử của con, đi vào thân thể con cũng như linh hồn con cho đến khi sự hiệp thông chấm dứt.”

Sau Thánh Lễ, dân chúng ở lại đôi phút để cảm tạ sau đó họ ra về. Và hiển nhiên, tôi bước ra ngoài tự hỏi, tôi đã làm điều gì vậy? Nhưng ngày hôm sau, tôi trở lại, và ngày sau nữa, sau nữa. Tôi không thể nói với một linh hồn nào. Tôi không thể nói với vợ tôi. Nhưng trong một hoặc hai tuần lễ tôi bị thu hút. Tôi hoàn toàn trong cuộc tình với Đức Kitô và sự Hiện Diện Thực Sự của Người trong Thánh Thể. Điều đó trở thành nguồn gốc và cao điểm cũng như tuyệt đỉnh của mỗi ngày, và tôi vẫn không thể nói điều đó với bất cứ ai.

Rồi một ngày kia Gerry gọi tôi. Chính anh đã đọc hàng trăm cuốn sách. Anh gọi tôi để thông báo, “Vợ tôi và tôi quyết định sẽ trở thành người Công Giáo vào Phục Sinh này (1986)” Tôi lớn tiếng, “Ê Gerry. Lẽ ra anh phải ngăn chặn tôi trở lại đạo Công Giáo; bây giờ anh lại đi trước tôi sao? Chơi vậy thì không đẹp.” Anh nói, “Nghe đây Scott, tôi không biết anh còn có những thắc mắc nào hay chống đối nào, nhưng tất cả các câu hỏi của chúng ta đều được trả lời.” Tôi trả lời, “Tôi cũng vậy.” Anh nói, “Thấy chưa, tôi đâu có tò mò.”

Sau khi gác máy điện thoại, tự nhiên tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng sự trì trệ việc vâng phục đối với tôi cũng giống như bất tuân phục. Thiên Chúa đã nói rõ trong Kinh Thánh về Đức Maria, về Đức Giáo Hoàng, ngay cả về Luyện Ngục từ thư 1 Corintô 3:15 và tiếp đó, về các thánh như người trong gia đình của Thiên Chúa, như anh chị em trong Đức Kitô. Tôi giải thích cho các bạn tôi nghe về ý nghĩa chính của Gia Đình Thiên Chúa mà đó là điều có ý nghĩa nhất trong đức tin Công Giáo. Đức Maria là mẹ của chúng ta, Đức Giáo Hoàng là người cha tinh thần, các thánh như anh chị, Thánh Lễ là một bữa tiệc gia đình, các ngày lễ giống như ngày kỷ niệm sinh nhật hay thành hôn. Chúng ta là gia đình của Chúa. Tôi không phải là một đứa mồ côi; tôi có mái nhà. Tôi chưa về đến nhà. Tôi bắt đầu xin Chúa, “Chúa muốn con làm gì? Gerry thì đang chuẩn bị gia nhập. Chúa muốn con làm gì?” Và Thiên Chúa lại xoay sang hỏi tôi, “Con muốn làm gì?” Tôi nói, “Con muốn về nhà. Con muốn rước Chúa trong Thánh Thể.” Và tôi cảm thấy như Chúa nói với tôi, “Thầy đâu có cản con.” Do đó tôi suy nghĩ, tốt hơn mình nên nói chuyện này với vợ.

Bởi đó tôi đi xuống nhà và nói, “Kimberly, em không thể đoán được điều mà vợ chồng Gerry đang sửa soạn thi hành”. “Điều gì?” Lúc bấy giờ cô không còn hy vọng gì nữa. “Họ sẽ trở nên người Công Giáo vào Phục Sinh này (1986).” Cô nhìn tôi và thở dài - cô ấy biết tôi rất rõ và vẫn yêu tôi - cô nói, “Rồi sao? Điều đó có gì khác biệt đâu? Anh đã từng hứa là anh không gia nhập Công Giáo cho đến năm 1990 là sớm nhất.” Tôi trả lời, “Phải, em đã nhắc anh điều đó; đúng vậy, anh đã hứa như vậy. Nhưng anh có thể được miễn cho điều đó nếu em cảm...” “Không, không, đừng...” “Em sẽ cầu nguyện cho anh điều đó chứ?” “Anh đừng dùng vấn đề cầu nguyện để tránh lời hứa.” Tôi nói, “Nhưng Kimberly này, em không muốn nghe điều ấy, em không muốn đọc về điều ấy, em không muốn thảo luận về điều ấy. Nhưng đối với anh, việc trì trệ vâng phục một điều mà Thiên Chúa đã cho biết quá rõ thì cũng giống như bất tuân phục.” Tôi biết Kimberly yêu tôi nhiều nên không bao giờ để tôi hay áp lực tôi phải không vâng lời Thiên Chúa. Cô ấy nói, “Em sẽ cầu nguyện về điều đó, nhưng em bảo cho anh biết, em cảm thấy bị phản bội. Em cảm thấy bị bỏ rơi. Chưa bao giờ trong đời em cảm thấy cô đơn như vậy. Tất cả các ước mơ của em đều tiêu tan vì vấn đề này.” Nhưng cô ấy đã cầu nguyện và Thiên Chúa chúc lành cho cô. Kimberly trở lại và nói, “Đây là điều đau lòng nhất trong đời, trong hôn nhân của chúng ta, nhưng em nghĩ đó là điều Thiên Chúa muốn em thi hành.”

Vào lễ đêm Phục Sinh 1986, cô thực sự theo tôi đến tham dự Thánh Lễ là nơi tôi được lãnh nhận các bí tích tháp nhập: rửa tội với điều kiện, xưng tội lần đầu, thêm sức và rước lễ. Khi trở về chỗ ngồi, hình như vợ tôi khóc, tôi choàng tay qua người cô và chúng tôi bắt đầu cầu nguyện. Chúa nói với tôi, “Thầy đâu có bắt con trở thành một người Công Giáo mà quên đi tình yêu của con dành cho Kimberly, vì Thầy yêu cô ấy nhiều hơn con. Thầy yêu cầu con trở nên người Công Giáo vì tình yêu của con. Vì con không có sức mạnh để yêu thương cô ấy nhiều như Thầy muốn con yêu vợ con, Thầy sẽ ban cho con những gì còn thiếu sót trong Thánh Thể.” Tôi nghĩ, “Chúa ơn, xin Chúa làm ơn giải thích điều đó cho vợ con đi.” Và tôi cảm thấy một sự bình an từ từ đến khi Chúa nói, “Đến lúc ấy, Thầy sẽ nói; con lui đi chỗ khác. Con không phải là Thần Khí; con không thể thay đổi tâm hồn vợ con.” Trong những ngày tháng kế đó, cô ta vẫn không thay đổi. Thật khó khăn.

Sau cùng tôi nhận dạy học trong vài năm ở một trường thuộc Joliet. Ngay trước khi dọn nhà, một điều mà Thiên Chúa đã để xảy ra. Chúng tôi có đứa con thứ ba, Hannah. Khi Hannah được thụ thai, tôi thật lo sợ. Có nhiều lý do để lo sợ nhưng chưa bao giờ tôi lo như thế vào sáng Chúa Nhật nọ, khi Kimberly mang thai khoảng bốn tháng. Chúng tôi đứng trong nhà thờ thuộc hội thánh của cô và hát câu cuối cùng, và cô quay sang tôi. Mặt cô trắng nhợt và nói, “Em không khoẻ, em đang bị ra máu.” Cô ngồi xuống rồi nằm dài trên băng ghế trong khi mọi người bắt đầu rời cung thánh. Tôi hoảng hốt. Tôi không biết phải làm gì; cô trắng nhợt như một thây ma. Tôi chạy đến điện thoại công cộng gọi cho bác sĩ sản khoa. Tôi hỏi, “Ông ấy ở đâu?” “Chúng tôi không biết bác sĩ đi đâu. Vào cuối tuần, ông ấy thường đi xa.” “Có cách nào bà báo cho ông ấy được không?” “Chúng tôi sẽ báo cho bác sĩ và nếu ông ấy còn ở đây ông ấy sẽ gọi cho ông.” Tôi thực sự hoảng hốt. Tôi bắt đầu cầu xin Thánh Gerard, cầu xin bất cứ ai. Tôi cũng xin Đức Giêsu Kitô giúp chúng tôi. Mười hay mười lăm giây đồng hồ sau, có tiếng điện thoại reo. Tôi nhắc máy, “Ông Scott đó hả?” “Phải.” “Đây là bác sĩ.” Tôi hỏi, “Ông đang ở đâu vậy?” Ông ấy hỏi lại, “Ông đang ở đâu?” Tôi nói, “Tôi đang ở ngoại ô thành phố trong một thị xã đặc biệt.” “Ở đâu?” “Ở trong nhà thờ này.” “Chỗ nào trong nhà thờ nào?” “Tôi ở ngay bên ngoài cung thánh gần máy điện thoại công cộng.” Ông trả lời, “Thật không thể tin được. Tôi vừa mới đến thăm nhà thờ đó sáng nay. Tôi đang ở dưới tầng hầm. Tôi sẽ lên đó ngay.” Ông bước lên cầu thang chỉ sau bốn năm giây đồng hồ. Ông hỏi, “Bà ấy đâu?” Tôi nói, “Kia, nằm ở đằng kia.” Ông chạy lại và bắt đầu nghe ngóng. Chúng tôi đưa Kimberly ra xe và chạy vội đến nhà thương Thánh Giuse. Kimberly được thoát chết cũng như tính mạng của em bé, và nhờ đó Hannad được chào đời.

Tôi cảm thấy rằng Chúa quá gần gũi với chúng tôi và với hôn nhân của chúng tôi mà dường như đang đổ vỡ. Tôi cầu nguyện, “Chúng con phải làm gì với đứa nhỏ này?” Ngay sau khi sinh Hannah, Kimberly đến với tôi và nói, “Em không biết rõ lý do, nhưng Thiên Chúa khiến em nghĩ rằng Hannah sẽ là một đứa con của sự hòa giải. Em không rõ điều đó có nghĩa gì.” Chúng tôi ôm nhau và cầu nguyện cho điều đó.

Sau khi Hannah chào đời, Kimberly đến với tôi. Cô nói, “Em không rõ lý do, nhưng em nghĩ  Thiên Chúa muốn em để Hannah rửa tội trong Giáo Hội Công Giáo.” Tôi nói, “Cái gì!” Cô ấy nói, “Em không rõ nhưng thật là như vậy.” Chúng tôi cùng tham dự nghi thức rửa tội. Đức Ông Bruskewitz, vị linh mục đã đưa tôi vào Công Giáo, thật là một người của Chúa. Giờ đây ngài là Đức Giám Mục ở Lincoln và ngài cử hành nghi thức quá tốt đẹp, tràn ngập truyền thống và Kinh Thánh, đến nỗi vào giữa nghi thức khi ngài đọc, “Allêluia, allêluia,” theo như kinh phụng vụ, Kimberly hầu như nhẩy nhổm lên và nói, “Allêluia! Ồ tôi xin lỗi.” Người trả lời, “Không sao, tôi cũng mong người Công Giáo làm như vậy; điều đó hay chứ.”

Một kết quả của việc cử hành nghi thức rửa tội là Kimberly sao chụp lại nghi thức và gửi cho gia đình, bạn hữu của cô. Nhưng cô ấy vẫn chưa sẵn sàng bước vào những tranh luận. Cô bắt đầu đọc và cầu nguyện. Càng ngày tôi càng cố gắng không can thiệp vào hành trình tâm linh của cô ta

 

Chuyến Thăm Vatican Ở Rôma

 

Tôi muốn đề cập đến một điều. Cha tôi trừ trần vào tháng Mười Hai vừa qua (1990), ông là người dạy tôi âu yếm gọi Thiên Chúa là “Cha.” Vào tháng Giêng, ông bố vợ mời tôi cùng với ông và nhóm của ông đến Vatican để được gặp riêng Đức Gioan Phaolô II,  nhóm này đang hoạt động chống với làn sóng đồi trụy khiêu dâm đang xâm nhập vào Đông Âu. Bố vợ tôi, một mục sư Presbyter, mời tôi gặp Đức Giáo Hoàng? Tôi nhận lời. Do đó tháng Giêng vừa qua, tôi không chỉ gặp Đức Giáo Hoàng trong một nhóm nhỏ, mà tôi còn được mời để tham dự Thánh Lễ của người trong nguyện đường riêng. Tôi chỉ cách người có vài bước và cảm được sự cầu nguyện của người. Bạn có thể nghe được lời cầu nguyện của người với đầu gục xuống trong đôi bàn tay, mang vác gánh nặng của Giáo Hội với tất cả tâm hồn.

Khi người công bố mầu nhiệm đức tin, tôi tự nhủ một quyết tâm, thực sự là hai: hàng ngày đi sâu vào Thánh Lễ hơn nữa và cầu cho Đức Giáo Hoàng trong công việc của người. Nhưng quyết tâm thứ hai là chia sẻ với anh chị em trong Đức Kitô về Đức Thánh Cha, và về phương cách mà Đức Kitô đã ban ơn cho chúng ta với một gia đình tuyệt vời, với Đức Trinh Nữ Maria sẽ trở nên Mẹ tinh thần chúng ta, với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là người cha tinh thần dẫn dắt tất cả chúng ta đến sự thờ phượng Cha trên trời, với các thánh là anh chị chúng ta, để nhận biết chúng ta là gia đình của Thiên Chúa, nhưng trên hết mọi sự, qua Thánh Thể nhận biết chúng ta đang quy tụ chung quanh bàn tiệc như người nhà của Thiên Chúa, con cái của Người. Thật là một đặc ân chúng ta đang có; thật là một ơn phước mà Người đã trao ban!