GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.

cha con

« Mùa Chay », hai từ ngữ này đã nói lên được tinh thần sống của người công giáo trong thời gian chuẩn bị bước vào tuần thánh, tuần cử hành con đường thương khó của Đức Kitô, và cuối cùng là mừng vui sự Phục Sinh của Ngài. Nhớ lại những năm tháng tuổi ấu thơ, tôi cũng được cha mẹ dạy cho tôi biết tập sống tinh thần của mùa Chay. Một hình ảnh mà tôi vẫn nhớ, đó là vào mùa Chay, chúng tôi phải kiêng thịt, phải ăn uống đạm bạc hơn, chẳng hạn như có bữa chỉ có chút rau và chén muối mè trên mâm cơm.

Hình ảnh của chén muối mè trên mâm cơm ngày đó dẫn bước tôi hôm nay đi vào một câu chuyện của muối :

Khao khát duy nhất của hạt muối là được xem thấy biển. Bằng mọi giá, nó muốn khám phá thế nào là biển... Ngày kia, nó ra đi... Vừa đến bờ biển, nó khám phá ra một cái gì mênh mông, xanh ngắt và sống động. Nó thốt lên:

Biển ơi, hãy nói đi, ngươi là ai?

Một đợt sóng trả lời:

Hãy chạm đến ta, rồi ngươi sẽ hiểu.

Hạt muối trườn mình xuống nước. Ô kìa, nó cảm thấy ngây ngất, niềm vui tột cùng làm nó cảm thấy như không còn đứng vững được nữa. Nó cảm thấy như đang hòa lẫn từ từ trong nước. Niềm vui dâng trào. Nó lại hỏi một lần nữa:

Biển ơi, hãy nói đi, ngươi là ai?

Một đợt sóng cuối cùng ôm ghì lấy nó và nó từ từ tan biến trong nước. Nó chợt reo vui lần cuối cùng:

Bây giờ ta mới hiểu thế nào là biển: biển là một phần của chính ta.

“Biển là một phần của chính ta”. 

Câu chuyện hạt muối khát khao tìm biển diễn tả tâm tình của tâm hồn khao khát đi tìm Chúa một cách mãnh liệt. Như hạt muối chỉ có thể hiểu được thế nào là biển khi nó “mở lòng” và lên đường đi tìm gặp biển, thì chúng ta chỉ có thể hiểu được Thiên Chúa khi chúng ta mở lòng mình và lên đường đi tìm gặp Chúa.

Nhưng cuộc gặp gỡ Thiên Chúa của chúng ta không chỉ dừng bước nơi việc “hiểu”. Hạt muối không chỉ hỏi biển: “Biển ơi, hãy nói đi, ngươi là ai?”, mà còn sẵn sàng để biển ôm ấp vào lòng. Cái ôm ấp của sự hiệp nhất, cái ôm ấp của tình yêu khát khao trở nên một, cái ôm ấp làm cho mình hòa tan thật sự, làm cho mình chết đi thật sự. Nhưng cái chết và sự hòa tan  không làm cho “muối” biến mất khỏi sự sống này. Ngược lại, qua chính sự hòa tan đó, muối đã hiệp nhất với biển và muối nhận ra được chân lý cao quý và căn bản: “Bây giờ ta mới hiểu thế nào là biển: biển là một phần của chính ta”.

Đọc kỹ lại tâm tình của muối, sẽ khám phá được những điểm thú vị và đặc sắc. Đó là qua “cái hiểu”, muối đã khám phá được mối tương quan thân thương và gắn bó với biển, một tương quan thuộc về của tình yêu: “biển là một phần của chính ta”.

“Thiên Chúa thuộc về định nghĩa của con người”. 

Câu chuyện của muối nhắc nhớ tôi nhớ lại những suy tư rất căn bản của cha Alfred Delp, một linh mục dòng Tên bị giết bởi phát xít Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai. Khi bị giam hãm trong tù, Alfred đã viết những bài suy niệm rất tuyệt vời. Một trong những tâm tình cha Alfred để lại đó là: “Thiên Chúa thuộc về định nghĩa của con người”. Nghĩa là, nếu con người muốn đi tìm chính mình là ai, thì con người không thể “bỏ qua” Thiên Chúa được, hay nói đúng hơn, con người chỉ tìm được chính mình, con người chỉ là người thực sự, khi con người gặp gỡ được Thiên Chúa, khi con người “bước ra khỏi chính mình” và mở lòng mình ra để đi vào cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Nhưng cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa không là cuộc gặp gỡ “giữa đường” hỏi thăm cho đúng phép lịch sự, cũng không là cuộc gặp gỡ của “nhu cầu khi nào cần thì mới đến thăm Chúa”, mà cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa mang chiều kích thân tình, cuộc gặp gỡ thật cá nhân (personnel). Thật vậy, khi nào con người bước vào được cuộc gặp gỡ thân tình như thế với Thiên Chúa, thì con người mới có thể hiểu được Ngài, hiểu được mình. Và từ cái hiểu đó, chúng ta sẽ khám phá ra chiều sâu của tình yêu Thiên Chúa giành cho chúng ta. Tình yêu đó nói với chúng ta rằng: “Con là một phần của chính Cha”.

“Con là một phần của chính Cha”. 

Câu chuyện kể về người Cha với người con hoang đàng chẳng lạ lẫm gì (Lc 15, 11-32). Đã bao lần chúng ta lắng nghe, đọc và tìm hiểu về câu chuyện đó.

Chuyện kể về người Cha có hai người con. Người con lớn chăm chỉ làm việc, và một lòng tùng phục cha mình. Còn người con thứ thì ở tuổi thanh xuân, chuẩn bị bước vào cuộc đời, nên anh ta ham chơi, thích phiêu lưu mạo hiểm. Vì thế, dù mới ở tuổi 16 chưa có quyền để đòi của thừa kế, chàng thanh niên vẫn đòi Cha cho mình phần của cải mình sẽ được hưởng. Vâng, cậu ấy muốn « biến » « cái món quà » của tương lai xa xôi kia trở nên giây phút hiện tại ngay lúc này. Tương lai cần phải được nắm trong tay ngay lúc này đây. Một kiểu tham lam không đáy của đời người, một cách cao ngạo và phung phí của con người trước những món quà cao quý. Nhưng Cha có cho không ? Bình thường chẳng có cha mẹ nào chấp nhận trao « món quà » cao quý của tương lai cho đứa con chưa đủ lớn, chưa đủ trưởng thành. Nhưng chẳng hiểu sao, người cha trong câu chuyện lại « gật đầu » trước lời xin xỏ quá đáng kia. Phải chăng, người cha không thể từ chối đứa con yêu dấu, đứa con là một phần của chính mình, bất cứ điều gì ?

Khi « kho tàng tương lai » đã được nắm trong tay của giây phút hiện tại, điều gì đã xảy ra sau đó ?  Bước ra khỏi mái nhà thân yêu, lên đường đi phương xa. Chẳng biết có chào tạm biệt cha không, chẳng biết có đi khỏi nhà một cách đàng hoàng hay không, hay lén lút và kín đáo ôm « món quà tương lai » lẻn bước qua cửa sau của nhà mình, để đi vào cửa chính của thế giới vui nhộn đang chờ cậu ta trước mặt ?

Ăn và chơi mà không làm, thì dù « món quà tương lai » có lớn kếch sù bao nhiêu, một ngày nào đó túi đầy tràn của ngày đầu tiên bước vào đời sẽ trở nên rỗng tuếch. Thê thảm thay phận người tham lam không đáy mà lại còn thích phung phí của trời! Rỗng tuếch sẽ hoàn rỗng tuếch. Cuối cùng, phận người đó đã rơi vào nơi mà anh ta chẳng bao giờ nghĩ tới, và cũng chẳng bao giờ muốn mơ tới. Nơi đó chẳng còn tiếng cười của bè bạn, nơi đó chẳng còn cốc rượu ngon của ngày nào, nơi đó chỉ còn bóng hình lam lũ cô đơn là chính anh đang ngồi bên cạnh những bóng hình không phải là người : một bầy heo. Con heo trong đôi mắt của người Do-thái là con vật dơ bẩn và gây nên biết bao ô uế. Vì thế, mọi người cần phải tránh xa con thú vật đó, nhưng phần anh ta, cũng là người Do-thái đấy, cũng là con cháu Áp-ra-ham đấy, lại phải sống chung với lũ heo kia. Vẫn biết rằng, anh ta là người chăn heo đấy, nhưng chưa chắc số phận của người chăn heo lại sướng hơn lũ heo đâu.

Đọc kỹ, thì thấy đúng là vậy. Trong cơn đói khổ, anh ta ao ước lấy cám heo mà ăn nhưng chẳng ai cho. Nhìn lũ heo ăn xong lăn ra ngủ với cái bụng tròn căng, mà lòng anh quặn đau. May thay, cái đau kia cộng với cái đói đang làm cho bao tử của anh « kêu oan » và đã đánh động lòng anh, bắt đôi mắt anh đang thèm thuồng nhìn bầy heo no say, phải ngẩng đầu hướng nhìn về mái nhà thân yêu của mình, về hình ảnh của người Cha yêu dấu. Chẳng biết tại sao lúc này anh lại nghĩ về Cha, về nhà mình ? Phải chăng vì đói, vì ao ước có được bữa ăn no bụng của những người đầy tớ trong nhà anh, nên anh làm thế. Chắc chắn rồi ! Nhưng không chỉ thế. Điều sâu xa thúc đẩy anh hướng lòng về Cha, về ngôi nhà thân yêu của mình chính là tình yêu người Cha giành cho anh.

Thật vậy, anh chính là một phần của người Cha. Vì thế, khi cho anh của thừa kế, người cha cũng cho anh chính tình yêu của Cha. Tình yêu đó đồng hành với anh không chỉ trong mái nhà thân yêu của những ngày ấu thơ, mà còn theo anh lên đường đến những nơi anh đi tìm hoan lạc. Và tình yêu đó cũng sẵn sàng chia sẻ số phận lam lũ nghèo hèn của anh, ngay tại chuồng thú hôi hám và dơ bẩn kia. Một tình yêu cao quý và trong sạch của Cha luôn ở bên người con yêu dấu, dù người con đó bị biến dạng như thế nào đi nữa, đơn sơ vì người con là một phần của Cha mà.

Vì người con là một phần của Cha, nên khi người con về tới đầu làng, thì đã thấy bóng dáng của Cha đang đứng trước nhà như đang trông mong mình. Nhưng không chỉ là « như », mà là thật vậy. Tình yêu đã thúc đẩy Cha hàng ngày ra trước cửa nhà để trông ngóng « một phần » của mình trở về. Và vui sướng biết bao nhiêu, sau bao ngày mong ngóng, thì hôm nay đôi mắt cha thấy bóng dáng kia đang lủi thủi trở về. Nhưng làm sao ông có thể nhận ra hình dáng lam lũ kia, không còn mang chiếc áo sạch sẽ của ngày nào, với tấm thân gầy còm không mang hình hài của người con ngày xưa, đang lê bước với đôi chân trần nặng trĩu của ngày hôm nay? Phải chăng tình yêu đồng hành của Cha luôn trong sáng, đến nỗi không có vết bẩn nào của cuộc đời có thể cản trở làm cho cha không còn nhận ra con mình, dù đứa con đó có ra thế nào đi nữa. Một phần của chính Cha vẫn là một phần của chính Cha mà !

Vì thế, cha đã chạy lại ôm cổ con mình và hôn lấy hôn để. Một tình yêu không sợ ô uế bởi cái mùi phảng phất của lũ heo đang ám ảnh trên thân phận lam lũ kia. Một tình yêu dù chẳng mắc nợ gì, nhưng vẫn trả lại cho con những nụ hôn nồng nàn. Những nụ hôn nồng nàn và không ngừng đó như là tất cả những nụ hôn được cộng lại, tính từ ngày đứa con lên đường đi hoang cho đến ngày trở về hôm nay. Nhưng cái cộng lại đó không chỉ mang tính cách « số lượng », mà cao quý hơn còn mang tính cách « chất lượng ». Cái chất lượng của lòng, của tâm, của chiều sâu nhất trong Cha. Vâng, Cha đã ôm hôn con với tình yêu của lòng mình giành cho con. Tình yêu tỏa ngát hương thơm trên thân xác hôi hám của đứa con hoang đàng. Thật không có mùi nước hoa nào thơm bằng mùi nước hoa của tình yêu ! 

Chính lúc ở trong vòng tay của Cha, người con đã thành thật lên tiếng thưa với Cha lời mà anh đã chuẩn bị khi còn là người chăn heo. Anh ta nói gì ? « Thưa Cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa… ». Một lời ăn năn phát xuất từ tấm lòng sâu thẳm của anh. Chính giây phút anh thốt lên lời này, hai tâm hồn đã gặp lại nhau và ôm hôn nhau thật thắm thiết. Tâm hồn của Cha với tình yêu nhân hậu bao la, và tâm hồn thống hối ăn năn của người con một thời đi hoang đã tìm lại nhịp đập chung. Và âm thanh của nhịp đập chung đó như muốn nói rằng : « con là một phần của chính Cha và Cha là một phần của chính con ». Nhưng tại sao lời nói của anh chỉ có vậy ? Dấu ba chấm trong câu để lửng như mang một ý nghĩa gì đó. Đọc kỹ lại lời nói người con chuẩn bị trước đó, mới thấy rằng, phần cuối của câu đã bị cắt đứt. Phần đó diễn tả điều gì ? « Xin coi con như một người làm công cho Cha vậy ». Đây là lời cầu xin mà người con chuẩn bị để thưa với Cha. Nhưng vì bị Cha cắt lời giữa chừng, nên người con không nói hết câu được. Tại sao lại vậy ? Phải chăng người Cha thấu biết điều đứa con xin ? Chẳng biết nữa, nhưng dù sao một lời cầu xin dù thành tâm đấy, nhưng chưa chắc là hợp lý. Cái hợp lý (logic) của tình yêu khác với logic của cái đầu. Vâng, làm sao cha có thể chấp nhận lời cầu xin của đứa con, dù đã từng một thời bỏ cha, bỏ nhà đi hoang, giờ đây không còn muốn giữ phẩm giá cao quý là con, mà xin xuống làm hàng đầy tớ. Không, không thể chấp nhận được. Cái bỏ lửng với ba dấu chấm sao mà tuyệt vời đến vậy ! Ăn năn thống hối và trở về với lòng thành tâm sẽ hoàn lại tất cả những gì đã mất. Hay nói đúng hơn, tình yêu của Cha không thể mất dù người con có « quay lưng », có chối từ và bỏ đi. Mùi nước hoa tình yêu của Cha một lần đã xức lên thân xác và tâm hồn đứa con, thì mùi hương thơm đó sẽ tồn tại mãi mãi. Không có mùi nào khác trong cuộc đời, dù có hôi có nặng đến mấy, cũng không thể « chiếm chỗ » của hương thơm tình yêu. Cũng thế, hương thơm tỏa ra từ ngày được làm con vẫn thế. Con mãi mãi là con, chứ không có gì đổi thay. « Đầy tớ », hai chữ này không có chỗ trong tình yêu của Cha giành cho con.

Vì là con, và vì con là một phần của chính Cha nữa, nên giờ đây con phải được tỏ lộ vẻ đẹp cao quý của Cha nơi mình. Vâng, không chỉ là cái đẹp của lòng bên trong, mà mọi người cần phải nhìn thấy cả nét đẹp tỏ lộ ra bên ngoài. Cái đẹp của chiếc áo mới, mà lại là áo đẹp nhất nữa chứ. Vâng, áo đẹp nhất mới xứng hợp với hương thơm của nước hoa tình yêu đang tỏa ngát trên thân xác và con người cậu. « Cậu » chứ không phải là người xa lạ bên ngoài mới tới. Vì thế, các người làm công và đầy tớ cũng cần phải chú ý vẫn giữ một tấm lòng trân trọng đối với người con của cha, dù đã một thời lẫm lẫn đi hoang. Phải gọi người con đó là « Cậu », chứ không thể thay đổi gì cả. Cuộc đời có nhiều quá khứ, quá khứ với cái đẹp, quá khứ với cái xấu, quá khứ với an bình, quá khứ với khổ đau. Và dù xấu dù đẹp, dù an bình dù khổ đau, nhưng tình yêu vẫn là tình yêu. Như Bonhoeffer nói , mọi sự sẽ qua đi, nhưng tình yêu Chúa mãi mãi tồn tại. Tình yêu của Cha không bao giờ chỉ thuộc về quá khứ. Tình yêu của Cha không bao giờ bị giam hãm trong « chiếc tủ » quá khứ. Tình yêu của Cha làm mới tất cả. Tình yêu Cha có sức mạnh làm cho người con vượt trên xấu và trên đẹp, trên khổ đau và trên an bình, để con vẫn luôn là con, để con vẫn được phép đeo vào chiếc nhẫn cao quý trên tay mình.

Khi trở về lại với vị trí làm con, là người con nhận lại được « mảnh đất » cao quý và tràn đầy yêu thương trong nhà cha. Trên mảnh đất đó, người con cần được xỏ vào đôi dép của tình yêu. Đôi dép của lòng nhân hậu giúp cho con lại tiếp tục sống vui trong đời.

Mỗi niềm vui đến mà không được « ăn mừng », thì sẽ nhanh chóng bị quên đi, bị đẩy lui vào dĩ vãng, và tiếc hơn vì giá trị của niềm vui đó vẫn chưa được khám phá cho đủ.

Vì thế, cần phải mở tiệc ăn mừng. Làm sao không ăn mừng được. Đồng bạc đánh mất, và tìm thấy vẫn mở tiệc ăn mừng, con chiên lạc đàn, khi tìm lại, được ăn mừng lớn hơn. Còn người con « đã mất nay tìm thấy, đã chết mà nay sống lại », thì phải ăn mừng sao cho đủ đây ? Phải chuẩn bị bữa tiệc cho thật linh đình, nên cần phải đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng. Mà lạ thay tại sao lại là « con bê đã vỗ béo » ? Phải chăng, con bê này đã được chăm sóc, đã được « vỗ béo »  một cách cẩn thận, và chỉ để giành cho bữa tiệc đón « Cậu » trở về ? Một bữa tiệc của tình yêu, một bữa tiệc của lòng thương xót. Bữa tiệc mừng « một phần của chính Cha » đã tìm lại được. Bữa tiệc mừng sự hiệp nhất của tình yêu, bữa tiệc của sự trọn hảo trong tình Cha giành cho con mình.

Thay lời kết.

« Biển là một phần của chính muối », câu chuyện của cuộc đời. « Con là một phần của chính Cha », câu chuyện của Đức Kitô. Nhưng không chỉ kể câu chuyện đó, mà chính Đức Kitô còn là một chứng từ rõ rệt cho chúng ta nhận ra được sâu xa hơn nữa tâm tình mà Thiên Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta : « Con là một phần của chính Cha ».